Nhắc lại sinh lý
Trong điều kiện bình thường, glucose được lọc qua các cầu thận và được các ống lượn gần tái hấp thu hoàn toàn. Như vậy, một người bình thường, khoẻ mạnh sẽ không thấy có glucose niệu. Khả năng tái hấp thu của ông thận đối với glucose hoàn toàn hữu hiệu khi nồng độ glucose máu < 10 mmol/L (180 mg/dL) (ngưỡng này giao động trong khoảng 1,4 đến 29/ tùy từng cá thể), khi nồng độ glucose có trong nước tiểu vượt quá giá trị này thường thấy xuất hiện glucose niệu.
Cần ghi nhận là ngưỡng thận đối với glucose khác nhau ở từng cá thể và có thể gia tăng trong suy thận, theo tuổi và bị giảm đi trong khi có thai, vì vậy có thể gặp các tình huống trong đó:
1. BN chắc chắn bị ĐTĐ song không thấy glucose trong nước tiểu (ngưỡng thận tăng cao).
2. BN không bị ĐTĐ song có glucose niệu do tổn thương ống thận.
Vì vậy, theo dõi glucose niệu ở người bị ĐTĐ là một yếu tố hữu Ích, Song không phải một thông số đủ tin cậy để bảo đảm tình trạng cân bằng của bệnh ĐTĐ.
Mục đích và chỉ định xét nghiệm
– Để chẩn đoán và theo dõi các bất thường chuyển hóa glucid.
-Để trợ giúp trong đánh giá một tình trạng có glucose niệu và khi nghi vấn có khiếm khuyết chức năng ống thận.
Cách lấy bệnh phẩm
– Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình xét nghiệm, thu mẫu nước tiểu, bảo quản giây và thuốc thử glucose niệu.
Giá trị bình thường (Xem thêm Bảng 1)
– Nước tiểu 24h: < 200 mg/24h hay < 11,2 mmol/L.
-Mẫu nước tiểu: < 30 mg/dL hay< 1,68 mmol/L.
Tăng nồng độ glucose niệu
Các nguyên nhân chính thường gặp là:
– Tất cả các nguyên nhân gây tăng đường huyết, nhất là khi tình
trạng tăng này vượt quá ngưỡng thận đối với glucose.
– Các rối loạn nội tiết:
- ĐTĐ.
- Nhiễm độc giáp.
- To đầu chi hay chứng người khổng lồ.
- Hội chứng Cushing.
-Chấn thương nặng.
-Đột quỵ.
– Nhồi máu cơ tim.
-Điều trị steroid đường uống.
-Bỏng, nhiễm trùng.
-U tủy thượng thận.
Giảm nồng độ glucose niệu
Các nguyên nhân chính thường gặp là:
– Điều trị bằng vitamin C, levodopa hoặc thuốc lợi tiểu thủy ngân.
Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm
– Để mẫu bệnh phẩm nước tiểu lâu trong điều kiện nhiệt độ phòng sẽ làm hạ thấp kết quả nồng độ glucose do tạp nhiễm vi khuẩn và phân hủy glucose.
-Tỷ trọng nước tiểu > 1,020 và tăng PH niệu gây giảm độ nhạy và hạ thấp giả tạo nồng độ glucose niệu.
Các cảnh báo lâm sàng
Phát hiện glucose trong nước tiểu bằng que thử nước tiểu bản định lượng hoặc bằng viên thuốc thử Clinitest là một biện pháp kém nhạy để sàng lọc bệnh ĐTĐ typ 2. Có thể gặp một tỷ lệ kết quả âm tính giá cao cho thấy que thử nước tiểu là test không thích hợp khi áp dụng để sàng lọc bệnh nhân. Thêm vào đó, không phải tất cả các bệnh nhân có glucose niệu là người bị ĐTĐ (Vd: glucose niệu có thể xảy ra khi có khuyết tật trong chức năng ống thận như được gặp trong nhiễm toan do ống thận typ 2 (nhiễm toan do ống thận gần) và trong tình trạng glucose niệu nguồn gốc thận có tính gia đình (familial renal glucosuria) – một rối loạn di truyền được kết hợp với tình trạng mất nước do thận, đái nhiều và thiếu hụt thể tích máu).
Nguồn: “Các xét nghiệm thường quy áp dụng trong thực hành lâm sàng” – do PGS.TS Nguyễn Đạt Anh và Dược sĩ chuyên khoa II Nguyễn Thị Hương biên soạn