CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM
THĂM KHÁM LÂM SÀNG:
Nhìn:
Đánh giá chung hình thể chi,so sánh 2 chi để thấy rõ hơn các biến đổi bệnh lý:Trong khám vết thương động mạch,việc quan sát vị trí tổn thương cũng như hình dáng chi thể nói chung có thể cho giá trị chẩn đoán rất quan trọng.Trong phồng động mạch có thể thấy khối phồng đập nẩy theo nhịp mạch.
Màu sắc da: hồng nhạt,nhợt nhạt hay tím tái.Chú ý tình trạng thay đổi màu sắc da ở các tư thế chi khác nhau.
Tình trạng dinh dưỡng da: chú ý các vùng mô dưới da bị phù nề hoặc bị teo đi.Có thể có các vùng bị loét,bội nhiễm,hoại tử,có các nốt phỏng…
Tình trạng lông,móng: khi chi bị thiếu máu nuôi dưỡng thường thấy thưa lông,móng bở và dễ gãy.
Các tĩnh mạch nông dưới da: bị căng,giãn to,ngoằn ngoèo,có thể tạo thành các đám,các búi ở các vị trí khác nhau,nhất là trong bệnh Giãn tĩnh mạch dưới da chi dưới.
Tình trạng cơ bắp: có thể bị teo cơ do dinh dưỡng chi kém.
Sờ:
Đánh giá tình trạng phù nề của chi tổn thương, ấn lõm hay không lõm.
Nhiệt độ da: nóng hay lạnh hơn so với các vùng khác và so với bên lành.
Trương lực cơ: bình thường hay nhẽo hơn so với bên lành.
Cảm giác da: đánh giá xem cảm giác da vùng chi tổn thương là bỉnh thường,giảm hay mất,ấn vào đau hay không đau.Chú ý xác định giới hạn trên của vùng có thay đổi cảm giác da đó.
Có thế sờ thấy “rung mưu” trong các bệnh có thông động-tĩnh mạch.
Bắt mạch: là động tác khám động mạch có giá trị chẩn đoán rất cao,chú ý xác định các yếu tố: mạch đều hay không đều,nhanh hay chậm,mạnh hay yếu…Các vị trí bắt mạch chính ở chi là:
Động mạch đùi: điểm giữa đường nối gai chậu trước trên và gai mu.
Động mạch khoeo: cho bệnh nhân nằm sấp,gối gấp 60-900,bắt ở phía trong cạnh điểm giữa hõm khoeo.
Động mạch chày trước: bắt mạch mu chân ở điểm giữa của cổ chân.
Động mạch chày sau: bắt động mạch gót ở rãnh sau mắt cá trong.
Động mạch nách: bệnh nhân dạng cánh tay,bắt mạch ở đỉnh hõm nách.
Động mạch cánh tay: bắt ở rãnh cơ nhị đầu phía trong.
Động mạch quay: bắt ở rãnh động mạch quay cổ tay.
Nghe:
Dùng ống nghe đặt trên đường đi của động mạch hoặc lên vùng nghi có tổn thương động mạch để xác định có tiếng thổi hay không,nếu có thì phải xác định đó là tiếng thổi một thì (thường là thì tâm thu) hay hai thì (thì tâm thu mạnh hơn tâm trương).
Đo:
Có thể dùng thước dây để đo kích thước chi ở các vùng nhất định và so sánh với bên lành,qua đó đánh giá được một phần mức độ phù nể hoặc biến dạng của chi bên tổn thương.
Một số nghiệm pháp khám lâm sàng trong thăm khám hệ thống tĩnh mạch chi dưới:
Đánh giá van tĩnh mạch nông:
Nghiệm pháp Schwartz: đặt một tay ở phần trên và tay kia ở phần dưới đoạn tĩnh mạch nông cần khám. Nếu có cảm giác sóng mạch đập vào ngón tay ở dưới khi ngón tay phía trên gõ thì nghiệm pháp dương tính,chứng tỏ van của tĩnh mạch nông đó đã bị suy.
Nghiệm pháp Trendelenburg: để bệnh nhân nằm giơ cao chân để dồn hết máu tĩnh mạch hiển trong.Dùng garo hoặc ngón tay chặn vào chỗ thông của tĩnh mạch hiển trong đổ vào tĩnh mạch bẹn ở sát nếp bẹn.Tiếp đó cho bệnh nhân đứng dậy rồi bỏ garo hay tay chặn ra và quan sát:nếu thấy tĩnh mạch giãn trở lại từ trên xuống trong vòng chưa đầy 30 giây thì nghiệm pháp dương tính,chứng tỏ van ở lỗ tĩnh mạch hiển trong đã bị suy.
Đánh giá van tĩnh mạch xuyên:
Nghiệm pháp garo từng nấc: làm giống như nghiệm pháp Trendelenburg nhưng đặt garo ở các đoạn cao thấp khác nhau của chi dưới nhằm đánh giá van tĩnh mạch xuyên ở đoạn nào bị suy.
Nghiệm pháp Prat: cho bệnh nhân nằm,dùng 2 cuộn băng thun:cuộn 1 băng từ dưới lên đùi,còn cuộn 2 bắt đầu băng từ sát bẹn.Cho bệnh nhân đứng dậy.Tháo dần cuộn thứ 1 từ trên xuống đồng thời dùng cuộn 2 băng tiếp vào chỗ cuộn 1 vừa tháo ra và quan sát.Nếu thấy tĩnh mạch nông giãn ra nhanh ở chỗ hở giữa hai cuộn băng đó thì nghiệm pháp dương tính,chứng tỏ van tĩnh mạch xuyên ở đoạn đó đã bị suy.
Đánh giá van tĩnh mạch sâu:
Nghiệm pháp Perther: cho bệnh nhân nằm giơ cao chân để dồn hết máu tĩnh mạch nông.Đặt garo tĩnh mạch nông ở sát bẹn rồi cho bệnh nhân đứng dậy và đi lại.Nếu thấy các tĩnh mạch nông căng to ra nhanh sau khi đi lại thì nghiệm pháp dương tính,chứng tỏ tĩnh mạch sâu lưu thông không tốt.
Nghiệm pháp Delber: cũng làm tương tự như nghiệm pháp Perther nhưng đặt garo ở nhiều đoạn khác nhau của chân để đánh giá đoạn tĩnh mạch sâu nào lưu thông không tốt.
CÁC THĂM KHÁM KHÔNG XÂM NHẬP:
Đo huyết áp động mạch bằng huyết áp kế:
Thường đo ở động mạch cánh tay (đặt bao đo ở ngay trên nếp khuỷu),trong những trường hợp đặc biệt có thể đo ở động mạch khoeo (đặt bao đo ở ngay trên hõm khoeo).Cần đo cả hai chi để so sánh.
Huyết áp tối đa (còn gọi là Huyết áp tâm thu) thường thay đổi theo tuổi,có thể dùng công thức sơ lược sau đây để tính giá trị huyết áp tối đa (theo mmHg)bỉnh thường ở người già:
Huyết áp tối đa = 100 + Số tuổi của bệnh nhân.
Huyết áp tối thiểu (còn gọi là Huyết áp tâm trương) thông thường bằng 1/2 Huyết áp tối đa + 10.
Huyết áp động mạch trung bình được tính bằng công thức:
Huyết áp trung bình=Huyết áp tối thiểu + 1/3(Huyết áp tối đa-Huyết áp tối thiểu).
Đo dao động thành mạch:
Sử dụng dao động kế Pachon.Đo ở các vị trí phần ba giữa đùi,phần ba trên và phần ba dưới cẳng chân.Đo cả hai bên chân để so sánh.
Đo được biên độ giao động của thành động mạch.Khi động mạch bị hẹp hoặc tắc,biên độ giao động này giảm rõ rệt so với bên lành.
Ghi biến đổi thể tích máu:
Dùng những máy có thiết kế đặc biệt để đo mức độ biến đổi thể tích của chi thể (đo trực tiếp sự thay đổi thể tích hoặc thay đổi điện trở của chi thể do sự thay đổi của khối lượng máu lưu hành trong phần chi thể đó).
Cho phép đánh giá được lưu lượng và mức độ lưu thông của dòng máu tại vùng chi thể được đo.
Đo nhiệt độ da:
Thường dùng loại nhiệt kế đặc biệt để đo nhiệt độ da của từng vùng chi thể,đo cả hai chi để so sánh.
Nhiệt độ da giảm khi dòng máu tuần hoàn đến vùng chi thể đó bị giảm xuống do động mạch vùng đó bị hẹp hay tắc.
Đo độ bão hoà oxy máu mao mạch qua da:
Dùng những bộ nhận cảm (Sensor) đặc biệt đặt trên vùng da của chi thể để đo độ bão hoà oxy máu trong các mao mạch vùng chi thể đó.
Độ bão hoà oxy máu mao mạch bị giảm trong nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau,trong đó có các bệnh lý gây hẹp,tắc hoặc giảm lưu lượng máu của động mạch.
Ghi Doppler mạch máu:
Có thể dùng Doppler xung liên tục,Doppler xung cách quãng và Doppler màu để đánh giá tình trạng dòng chảy của máu động mạch.
Cho phép đánh giá được hướng dòng chảy,kiểu dòng chảy,tốc độ,áp lực,lưu lượng… của dòng máu động mạch.
Chụp siêu âm kép (Duplex Ultrasonography):
Là phương pháp kết hợp chụp siêu âm kiểu B và ghi Doppler xung cách quãng.
Cho phép đánh giá hình ảnh các động mạch chi thể theo các lớp cắt ngang và dọc động mạch,đồng thời có thể đánh giá được hướng,tốc độ,áp lực…dòng máu trong mạch đó.
Chụp động mạch cộng hưởng từ:
Dùng phương pháp chụp cộng hưởng từ hạt nhân để chụp động mạch chi thể.Phương pháp này nhiều khi có giá trị chẩn đoán chính xác không kém chụp X.quang động mạch cản quang.
CHỤP X.QUANG MẠCH MÁU CẢN QUANG:
Hiện nay có thể nói Chụp X.quang mạch máu cản quang là phương pháp chẩn đoán quan trọng nhất trong thăm khám các bệnh mạch máu.
Máy dùng để chụp mạch máu cản quang là máy chuyên dụng: có khả năng chụp nhanh,chụp hàng loạt hoặc chụp Xine.Các máy hiện đại có khả năng chụp cắt lớp,có màn hình tăng sáng và phóng đại hình ảnh,có thể khử hình ảnh của các bộ phận khác (như xương,cơ…) để có hình ảnh của mạch máu rõ ràng hơn.
Thuốc cản quang mạch máu thường là các dầu siêu lỏng chứa Iot, có khả năng tan trong nước và ít gây phản ứng phụ cho bệnh nhân khi tiêm vào mạch máu.Phải có bơm tự động được thiết kế đồng bộ với máy chụp để bơm thuốc cản quang với áp lực thích hợp và tốc độ đủ nhanh,nhờ đó thu được hình chụp mạch máu rõ ràng nhất.
Các phương pháp chụp động mạch:
Tuỳ cách đưa thuốc cản quang vào động mạch để chụp có thể có các phương pháp chụp chính như sau:
Chụp động mạch bằng chọc kim trực tiếp:
Chi dưới: thường chọc vào động mạch đùi chung ở ngay dưới nếp bẹn,hướng kim theo chiều dòng máu để bơm thuốc và chụp động mạch chi dưới cùng bên.
Chi trên: Có thể chọc vào động mạch dưới đòn,động mạch nách hay động mạch cánh tay ở bờ trong cơ nhị đầu tuỳ theo vị trí động mạch cần chụp.
Chụp động mạch phương pháp Seldinger: dùng ống thông (Catheter) luồn vào động mạch để đưa thuốc cản quang đến vùng động mạch cần chụp.Cho đến nay,đây vẫn là phương pháp chụp động mạch cản quang tốt nhất và đang được sử dụng rộng rãi,nhất là cho những bệnh nhân bị bệnh động mạch có chỉ định điều trị ngoại khoa.
Dụng cụ: những dụng cụ cần thiết nhất gồm có: kim có nòng thông,dây dẫn đường có thể luồn vào qua nòng kim,ống thông (Catheter) có đường kính to hơn dây dẫn đường…
Kỹ thuật: thường chọc kim vào động mạch đùi chung bên trái ở ngay dưới nếp bẹn,rút nòng thông kim sẽ thấy máu động mạch phụt ra.Luồn dây dẫn đường qua nòng kim vào sâu khoảng 30-50 cm rồi rút kim ra trong khi vẫn giữ lại dây dẫn đường.Luồn ống thông (Catheter) vào dây dẫn đường để theo đó vào động mạch.Tiếp đó,dưới theo dõi bằng màn hình tăng sáng,đưa ống thông đến vùng động mạch cần chụp để bơm thuốc cản quang chụp động mạch đã chọn lọc đó.
Kết quả: cho những hình ảnh rất rõ ràng về hệ thống động mạch: hình thái tổn thương động mạch,tình trạng tuần hoàn bên,liên quan giải phẫu của động mạch với các cơ quan khác xung quanh,tình trạng lưu thông của động mạch,hình ảnh thông động-tĩnh mạch…Một số trường hợp có thể đánh giá được cả hệ thống tĩnh mạch đi kèm với động mạch đó khi chụp ở giai đoạn thuốc cản quang đã chuyển sang tĩnh mạch.
Các phương pháp chụp cản quang tĩnh mạch:
Chụp tĩnh mạch xuôi dòng:
Bơm thuốc cản quang trực tiếp vào phần ngoại vi của các tĩnh mạch định chụp.
Để chụp tĩnh mạch sâu của chi dưới,có thể bơm thuốc cản quang vào tĩnh mạch dưới da (thường là tĩnh mạch hiển ngoài ở vùng mu bàn chân) nhưng có garo tĩnh mạch đó ở phía trên chỗ bơm thuốc (để thuốc cản quang vào tĩnh mạch sâu qua các tĩnh mạch xuyên) hoặc bơm thuốc cản quang vào tuỷ xương gót.
Chụp tĩnh mạch ngược dòng:
Ít được xử dụng.Thường chỉ dùng khi muốn xác định tình trạng hoạt động của van tĩnh mạch sâu chi dưới.Tiến hành bơm thuốc cản quang ngược dòng từ tĩnh mạch bẹn vào tĩnh mạch sâu chi dưới và chụp X.quang.
TRIỆU CHỨNG HỌC LÂM SÀNG.
VẾT THƯƠNG ĐỘNG MẠCH:
Nguyên nhân:
Vết thương xuyên: do các vật nhọn,đạn bắn,mảnh đạn,đầu xương gãy…xuyên vào động mạch.Động mạch có thể bị đứt đôi hoàn toàn hoặc chỉ bị tổn thương ở một bên thành mạch.
Chấn thương giập động mạch: thường do các chấn động mạnh (va đập,sóng nổ…) làm cho thành động mạch bị giập vỡ hoặc đứt nát.
Triệu chứng chẩn đoán:
Vị trí tổn thương: vị trí tổn thương nằm trên đường đi của động mạch:
Quan sát kỹ lỗ vào và lỗ ra của vết thương (nếu là vết thương chột thì cần hỏi kỹ về cơ chế và tư thể bệnh nhân khi bị thương) để xác định vị trí động mạch có thể bị tổn thương.
Có khi phải chụp X.quang để xác định vị trí dị vật (mảnh đạn…)trong vết thương hoặc vị trí và hình thái gãy xương,nhằm đánh giá vị trí động mạch có khả năng bị tổn thương.
Tình trạng tại chỗ vết thương:
Miệng vết thương chảy máu mạnh,có khi thành tia.Máu có màu đỏ tươi.Nhiều trường hợp dị vật gây tổn thương động mạch vẫn nằm tại chỗ và có tác dụng bịt tạm thời lỗ vết thương lại thì có thể không thấy rõ máu chảy ra qua miệng vết thương.Lúc này nếu xử lý vội vàng làm mất cơ chế bịt tạm thời này thì có thể gây chảy máu tại chỗ vết thương rất dữ dội.
Phần mềm quanh vùng vết thương động mạch thường căng nề nhanh chóng,nhất là khi miệng vết thương bị bịt lại làm cho máu chảy ra tụ lại quanh vết thương. Có khi máu chảy ra tạo nên một bọc máu tụ: khám thấy khối máu tụ này nổi căng dưới da,đập nẩy theo nhịp mạch và nghe có tiếng thổi tâm thu (cần chú ý khám kỹ để phân biệt với một khối Apxe).
Vùng chi phía ngoại vi của động mạch bị tổn thương:
Thường có triệu chứng thiếu máu cấp tính: da xanh nhợt,lạnh,mất cảm giác khi cấu véo,phù nề tăng dần. Cử động của chi bị hạn chế và có cảm giác đau nhức liên tục trong chi.
Mạch ngoại vi mất hoặc đập yếu hơn so với bên lành.
Có thể có các triệu chứng tổn thương các dây thần kinh đi cùng với các mạch máu của chi bị thương.
Có thể gặp Hội chứng chèn ép khoang (Hội chứng khoang ngăn): đây là một hội chứng đặc biệt có thể xảy ra trong vết thương động mạch mà miệng vết thương nhỏ,máu chảy ra không ra được bên ngoài qua miệng vết thương,mà tụ lại với khối lượng lớn trong các khoang cân cơ của vùng chi bị tổn thương (thường gặp trong vết thương động mạch khoeo và chày sau) gây chèn ép nặng nể các bó mạch-thần kinh của chi,tạo nên hiện tượng “Garo trong” dẫn tới tình trạng thiếu máu và hoại tử nhanh chóng vùng chi tổn thương.Các triệu chứng cơ bản là:
Vùng chi tổn thương căng cứng,rất đau.Cảm giác đau tức tăng lên khi bóp hoặc làm động tác duỗi căng các cơ của chi tổn thương.
Mất dần cảm giác nông cũng như vận động của chi bị tổn thương.
Da vùng chi tổn thương tím nhợt,lạnh.Có thể có các nốt phỏng nông trên da.
Mạch ngoại vi yếu hoặc mất hẳn.
Nếu không phát hiện và xử trí kịp thời,vùng chi bị tổn thương có thể bị hoại tử nhanh chóng.
Toàn thân:
Thường có hội chứng mất máu cấp tính: khát nước,hoa mắt,chóng mặt, ,da niêm mạc nhợt nhạt,toát mồ hôi lạnh,mạch nhanh nhỏ,huyết áp tụt… thậm chí có thể ở trạng thái u ám hoặc choáng nặng.
Trong Hội chứng chèn ép khoang,bệnh nhân có thể có tình trạng nhiễm độc nặng do vùng chi tổn thương bị hoại tử.
TẮC ĐỘNG MẠCH CHI:
Tắc động mạch chi cấp tính:
Là tình trạng tắc đột ngột lưu thông của động mạch chi. Nguyên nhân có thể do:
Nghẽn động mạch cấp tính: thường là hậu quả của một bệnh lý động mạch (bệnh xơ mỡ động mạch,bệnh viêm tắc động mạch…)gây tổn thương tại chỗ thành động mạch,rồi trên cơ sở đó hình thành cục nghẽn.
Tắc động mạch: cục tắc có thể là cục máu đông, mỡ, bóng khí…di chuyển từ nơi khác đến gây tắc hoàn toàn lòng của động mạch chi.
Triệu chứng chẩn đoán:
Đau: xuất hiện đột ngột (cấp tính),dữ dội.Lúc đầu có thể khư trú ở một chỗ trên đường đi của mạch máu,sau đó đau có tính chất lan toả đến tận đầu của chi có động mạch bị tắc.
Bại hoặc mất chức năng vận động của chi có động mạch bị tắc.
Toàn trạng có thể có sốc nhẹ hoặc nặng.
Chi bên tổn thương lạnh,giảm hoặc mất cảm giác,giảm hoặc mất các vận động chủ động cũng như thụ động.
Mạch phía ngoại vi đập yếu hoặc mất.
Các thăm khám cận lâm sàng: có thể tiến hành các thăm khám bằng Siêu âm,chụp X.quang động mạch cản quang,chụp CT…để xác định chẩn đoán.
Tắc động mạch chi mãn tính:
Là tình trạng tắc động mạch chi diễn ra từ từ và tăng dần.Nguyên nhân thường do bệnh xơ mỡ động mạch: thành động mạch bị tổn thương tạo thành các mảng nhiễm mỡ và hình thành các cục nghẽn gây hẹp dần lòng động mạch lại. Đồng thời do lưu thông dòng máu qua động mạch chính bị cản trở nên sẽ hình thành dần hệ tuần hoàn bên thông qua các động mạch cơ.Tuy nhiên lưu lượng máu đến nuôi chi bị tổn thương vẫn ngày một giảm đi.
Triệu chứng chẩn đoán:
Đau: thời gian đầu biểu hiện bằng dẩu hiệu “đi lặc cách hồi”: bệnh nhân cứ đi bộ được một quãng nhất định thì lại phải nghỉ một lúc vì bị đau và “chuột rút” ở bắp chân.Về sau bệnh nặng dần: quãng đường đi được ngày càng ngắn,triệu chứng đau và “chuột rút” ngày càng nặng,thời gian nghỉ để có thể đi tiếp ngày càng phải lâu hơn.Cuối cùng,đau trở nên thường xuyên: nằm nghỉ cũng đau,nhất là về đêm.
Mạch bên chi tổn thương yếu hơn bên lành.Chi bên tổn thương có thể có các biểu hiện thiểu dưỡng (phù,lạnh,các vết loét…)
Cần tiến hành các thăm khám cận lâm sàng khác như Siêu âm,chụp X.quang động mạch cản quang…để xác định chẩn đoán.
PHỒNG ĐỘNG MẠCH VÀ THÔNG ĐỘNG-TĨNH MẠCH DO DI CHỨNG VẾT THƯƠNG MẠCH MÁU:
Phồng động mạch:
Thường do vết thương một phần động mạch,máu chảy ra tụ lại trong tổ chức xung quanh động mạch, sau đó dần tạo nên túi phồng động mạch.
Triệu chứng chẩn đoán:
Khối phồng có hình tròn hoặc bầu dục, nằm trên đường đi của động mạch.
Khối phồng đập nẩy và co giãn theo nhịp mạch (có thể nhìn và sờ thấy).
Nghe trên khối phồng thấy có tiếng thổi xuất hiện trong thì tâm thu.
Nếu ấn mạnh chặn vào phần động mạch phía trên khối phồng thì thấy khối phồng nhỏ lại, các triệu chứng đập nẩy, tiếng thổi…đều giảm hoặc mất.
Mạch ở vùng dưới chỗ phồng đập yếu hoặc mất. Có thể có các hiện tượng thiểu dưỡng ở vùng chi dưới chỗ phồng động mạch.
Tiến hành các thăm khám cận lâm sàng khác như Siêu âm,nhất là chụp X.quang động mạch cản quang giúp chẩn đoán xác định.
Thông động-tĩnh mạch:
Thường do vết thương một phần cả động mạch và tĩnh mạch song hành,máu chảy ra tụ lại trong tổ chức xung quanh động mạch,sau đó dần tạo nên đường thông giữa động mạch và tĩnh mạch
Triệu chứng chẩn đoán:
Khối bệnh lý có ranh giới không rõ, nằm trên đường đi của mạch máu.
Không thấy khối đó đập nẩy theo nhịp mạch. Sờ có thể thấy triệu chứng “rung mưu” trên khối đó.
Nghe trên khối bệnh lý đó thấy có tiếng thổi liên tục, rõ hơn trong thì tâm thu.
Nếu ấn mạnh để chặn vào phần động mạch phía trên khối bệnh lý thì thấy khối đó nhỏ lại, các triệu chứng rung mưu,tiếng thổi…đều giảm hoặc mất.
Vùng chi phía dưới chỗ có khối bệnh lý thường có hiện tượng thiểu dưỡng.Mạch ở vùng này đập yếu hoặc mất.
Nhịp tim nhanh, có thể có triệu chứng suy tim do lượng máu động mạch trở về tim nhanh và nhiều qua đường thông động-tĩnh mạch.Triệu chứng suy tim càng nhanh và nặng khi vị trí chỗ thông động-tĩnh mạch càng gần tim.
Tiến hành các thăm khám cận lâm sàng khác như Siêu âm,CT…nhất là chụp X.quang động mạch cản quang giúp chẩn đoán xác định.
BỆNH TĨNH MẠCH CHI DƯỚI:
Bệnh giãn tĩnh mạch nông chi dưới:
Là tình trạng các tĩnh mạch nông chi dưới bị giãn ra do thành tĩnh mạch bị tổn thương không hồi phục.Nguyên nhân của bệnh chưa rõ ràng.
Triệu chứng chẩn đoán:
Không có tình trạng bệnh lý nào có liên quan mà giãn tĩnh mạch chỉ là triệu chứng của các bệnh này (tắc tĩnh mạch sâu,thông động-tĩnh mạch…).
Các tĩnh mạch nông chi dưới bị giãn to,căng,ngoằn ngoèo ( chú ý xác định vị trí các tĩnh mạch giãn,hình thái giãn thành đám,búi…)
Các triệu chứng rối loạn dinh dưỡng của chi dưới: phù nề,loét,rối loạn sắc tố…
Các nghiệm pháp khám chức năng van tĩnh mạch chi dưới: tuỳ hệ tĩnh mạch nào bị tổn thương thì nghiệm pháp khám tương ứng sẽ dương tính.
Các thăm khám cận lâm sàng: chụp tĩnh mạch cản quang,siêu âm…để xác định tình trạng van tĩnh mạch cũng như hình thái tổn thương của tĩnh mạch rõ hơn.
Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới:
Là tình trạng tổn thương viêm tắc tĩnh mạch chi dưới do cục tắc hay cục nghẽn.Thường gặp trong các trường hợp nằm bất động lâu ngày,sau mổ,sau đẻ,tổn thương tĩnh mạch do chấn thương hay viêm nhiễm,cơ địa máu tăng đông…
Triệu chứng chẩn đoán:
Đau ở bắp chân: lúc đầu thường có cảm giác đau tức.Bóp vào bắp chân thấy đau nhói.Cho bệnh nhân gấp bàn chân về phía mu để làm căng cơ phía bắp chân sẽ làm bệnh nhân đau nhói (dấu hiệu Homan dương tính).Về sau cảm giác đau tăng dần,trở nên rất dữ dội.
Phù chân: lúc đầu còn nhẹ ( để bệnh nhân nằm hơi gấp chân, lấy tay đẩy đung đưa bắp chân và so sánh 2 bên,khi có phù nhẹ sẽ thấy khả năng đung đưa của bắp chân bị giảm so với bên lành).Về sau tình trạng phù tăng dần,có thể làm biến dạng cả chi dưới.
Có thể có hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc nhẹ: sốt,khó chịu,mất ngủ,Bạch cầu máu tăng…
Có thể chụp X.quang cản quang,siêu âm…tĩnh mạch sâu chi dưới để xác định chẩn đoán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Triệu chứng học ngoại khoa
Nhà xuất bản y học.Hà nội.2000
Bài giảng bệnh học ngoại khoa sau đại học.Tập 1
Học viện quân y.Hà nội.1992.
BÌNH LUẬN