You dont have javascript enabled! Please enable it! Trật khớp vai tái diễn - THƯ VIỆN MEDIPHARM
Trang chủChấn thương - Chỉnh hình

Trật khớp vai tái diễn

Khám chi dưới – khung chậu – đùi
Bài giảng vết thương khớp do hỏa khí
Tràn khí màng phổi
Khám khung chậu
Vỡ bàng quang ở trẻ nhỏ

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV103, HVQY.

1. Đại cương

1.1. Sơ lược giải phẫu khớp vai

Khớp vai là khớp có tầm vận động rộng nhất so với các khớp khác trong cơ thể, nhờ đó hoạt động của tay được linh hoạt. Trong quá trình tiến hóa, con người đi bằng hai chân ở tư thế đứng thẳng, hai tay được tự do, khớp vai cũng tiến hóa để phù hợp với hoạt động linh hoạt của chi trên. Do đó, ngoài khớp ổ chảo – cánh tay là khớp nối giữa đầu trên xương cánh tay với xương bả vai, hoạt động chức năng của khớp vai còn có sự tham gia của 4 khớp khác, trong đó chỉ có 3 khớp có cấu trúc khớp thực thụ (khớp giải phẫu), còn hai khớp không có cấu trúc của một khớp thực thụ mà nó được gọi là khớp vì có chức năng như một khớp (khớp chức năng). Như vậy hoạt động của khớp vai là sự phối hợp của 5 khớp, bao gồm:

– Khớp ổ chảo – cánh tay (khớp giải phẫu). Khi nói tới khớp vai, người ta thường ám chỉ khớp này. Khớp được tạo bởi ổ chảo của xương bả vai và lồi cầu của đầu trên xương cánh tay.

– Khớp bả vai – lồng ngực (khớp chức năng): được tạo bởi xương bả vai và mặt sau của lồng ngực.

– Khớp trên vai: được tạo bởi đầu trên xương cánh tay với cung cùng – quạ (khớp chức năng).

– Khớp cùng – đòn (khớp giải phẫu): được tạo bởi mỏm cùng của xương bả vai và đầu ngoài xương đòn.

– Khớp ức – đòn (khớp giải phẫu): được tạo bởi góc trên ngoài cán xương ức và đầu trong xương đòn.

Hoạt động chức năng của khớp vai là sự phối hợp hoạt động của 5 khớp trên, giúp cho tầm hoạt động chức năng của khớp vai rất rộng và linh hoạt. Bất kỳ tổn thương chức năng của một khớp nào trong các khớp trên đều ảnh hưởng tới hoạt động chức năng của khớp vai.

Trong 5 khớp trên, khi nói khớp vai thì thường người ta ám chỉ khớp ổ chảo – cánh tay. Nói sai khớp vai cũng là chỉ sai khớp ổ chảo – cánh tay, vì vậy trong phần này chúng tôi cũng chỉ mô tả khớp ổ chảo – cánh tay.

         

Hình 1. Các thành phần cấu tạo của khớp vai. Hình trái: Hình ảnh X-quang khớp vai trái bình thường. Hình phải: Hình minh họa tương ứng.

Khớp ổ chảo – cánh tay

Đây là khớp có cấu trúc giải phẫu thực thụ, được tạo bởi ổ chảo của xương bả vai với lồi cầu của đầu trên xương cánh tay. Khớp ổ chảo – cánh tay là điển hình của một khớp tiếp giáp không hoàn toàn, có nghĩa là diện ổ chảo nông và nhỏ nên không tiếp giáp hoàn toàn với diện lồi cầu lớn, mà diện ổ chảo chỉ tiếp giáp với một phần của diện lồi cầu. Lồi cầu không có hình cầu mà có hình bầu dục, có diện tích lớn hơn ổ chảo, nên luôn có một diện tích bề mặt lồi cầu nằm ngoài ổ chảo. Khi vận động lồi cầu xoay và trượt trên ổ chảo, nên tính ổn định của khớp thấp. Vì ổ chảo nông và hẹp nên có một sụn, viền quanh chu vi ổ chảo để làm tăng diện tích ổ chảo, được gọi là sụn viền ổ chảo.

Bao khớp ổ chảo – cánh tay có thành mỏng bám vào bờ của ổ chảo. Có một phần xương sụn mỏng của ổ chảo nằm trong bao khớp, đây là sụn viền ổ chảo, đó là chỗ có thể gây viêm xương sụn trong bao khớp. Khi trật khớp, sụn viền ổ chảo thường bị vỡ ở chỗ lồi cầu trượt ra khỏi ổ chảo.  Phía ngoài, bao khớp bám vào toàn bộ cổ giải phẫu của xương cánh tay. Có màng hoạt dịch phủ mặt trong bao khớp, từ vùng sụn của đầu trên xương cánh tay tới vùng sụn của ổ chảo. Đầu dài gân cơ nhị đầu chạy trong rãnh nhị đầu của xương xánh tay, luồn vào phần trên của bao khớp để bám vào diện trên của ổ chảo. Gân dài cơ nhị đầu tuy luồn trong bao khớp nhưng nằm ngoài bao hoạt dịch (bao hoạt dịch phủ lên nó), nên tuy nằm trong khớp nhưng gân dài cơ nhị đầu không nằm trong ổ khớp. Bao khớp ôm chặt gân cơ nhị đầu đi xuống dưới rãnh liên mấu chuyển và dừng lại ở chỗ bám của cơ ngực lớn. Bao hoạt dịch cũng ôm gân cơ nhị đầu chạy xuống dưới trong rãnh nhị đầu xương cánh tay và dừng lại cùng chỗ bao khớp dừng ở điểm bám của cơ ngực lớn, tạo nên túi cùng hoạt dịch gân cơ nhị đầu. Bao hoạt dịch khớp cũng có một ngách, tạo thành một túi cùng hoạt dịch đệm dưới mỏm quạ, gọi là túi hoạt dịch dưới mỏm quạ.

   

Hình 2. Ổ chảo và bao hoạt dịch khớp ổ chảo – cánh tay.

Vì tầm vận động của khớp ổ chảo – cánh tay rất rộng, để phù hợp với chức năng đó thì bao khớp ổ chảo – cánh tay rộng và có tính chùng giãn. Khi cánh tay xuôi áp sát thân mình thì bao khớp phía trên căng, bao khớp phía dưới (phía nách) chùng và gấp nếp như một túi ở dưới gọi là nếp nách. Ngược lại, khi cánh tay dạng và giơ lên sát đầu thì bao khớp phía dưới (phía nách) căng ra, còn bao khớp phía trên chùng và gấp nếp lên trên. Bao khớp cũng căng và chùng tương tự như vậy khi đưa cánh tay ra trước hoặc ra sau.

    

Hình 3. Ổ khớp và bao khớp ổ chảo – cánh tay

Phần trên của bao khớp căng nhất khi buông thõng cánh tay sát thân mình, ngăn sự di chuyển của đầu trên xương cánh tay xuống phía dưới. Phía trước bao khớp được tăng cường bởi ba dây chằng ổ chảo – cánh tay (dây chằng trên, dây chằng giữa và dây chằng dưới). Những dây chằng này được gấp nếp theo chiều ngang và tỏa ra hình quạt ôm lấy phía trước của bao khớp. Các dây chằng này xuất phát từ đầu trên xương cánh tay tới bám vào bờ trước của ổ chảo với những khoảng cách khác nhau, có chỗ bám vào bờ trước của ổ chảo sát xương, có chỗ thì tách khỏi ổ chảo. Dây chằng trên và dây chằng giữa không sát nhau mà để hở một khe hình tam giác đáy hướng về phía đầu trên xương cánh tay, đỉnh ở phía bờ ổ chảo. Khe hở này chỉ được phủ một lớp bao khớp mỏng gọi là hố Weibrecht, hố này thông giữa bao khớp và hố dưới vai.

Phía trước, bao khớp gấp nếp tạo thành một túi để làm chùng bao khớp, bao khớp chùng có thể kéo xương cánh tay ra xa ổ chảo được khoảng 3cm, túi này cùng với hố Weibrecht là điểm yếu làm đầu trên xương cánh tay dễ trật khỏi ổ chảo ra trước lên trên qua hố Weibrecht (trật khớp vai).

        

Hình 4. Dây chằng và bao khớp ổ chảo – cánh tay.

1.2. Khái niệm trật khớp vai tái diễn

Trật khớp vai là khi chỏm xương cánh tay trật khỏi ổ chảo làm dây chằng, bao khớp và sụn viền bị rách, có thể kèm theo dập, gãy, khuyết xương ổ chảo hoặc xương cánh tay.

Trật khớp vai tái diễn là tình trạng trật khớp vai từ lần 2 trở lên sau lần trật đầu tiên. Thể hiện bằng mất vững khớp vai: lỏng khớp vai và dễ trật lại.

Khớp vai có khả năng trật đi trật lại nhiều lần khác sau lần trật đầu tiên gây ra tình trạng trật khớp vai tái diễn. Có đến 90% trật khớp vai tái diễn nhiều lần sau lần bị đầu tiên, thường xảy ra ở người trẻ (tuổi từ 18 – 25 tuổi) do nhu cầu hoạt động vai nhiều. Khi bị trật nhiều lần, sẽ gây rách rộng thêm các cấu trúc sụn viền và dây chằng bao khớp, lâu ngày làm khuyết xương, gãy mảnh xương, rách gân cơ chóp xoay dẫn đến khớp vai lỏng lẻo, mất chức năng khiến khả năng vận động kém, đau vai và khó khăn trong các hoạt động, đặc biệt là tư thế giơ tay cao.

                

Hình 5. Hình ảnh X-quang trật khớp vai phải ra trước (hình trái) và trật khớp vai trái ra trước (hình phải).

1.3. Nguyên nhân trật khớp vai tái diễn

Nguyên nhân trật khớp vai thường gặp trong chấn thương thể thao, tai nạn giao thông, tai nạn lao động và tai nạn trong sinh hoạt hàng ngày… trong đó chấn thương thể thao chiếm tỷ lệ cao nhất (58%).

Khi các dây chằng, bao khớp và gân cơ quanh khớp vai trở nên lỏng lẻo hoặc bị rách tạo nên sự mất vững khớp vai thì trật khớp vai có thể tái diễn nhiều lần. Mất vững khớp vai mạn tính là tình trạng mất vững kéo dài của các cấu trúc nói trên làm cho chúng không thể giữ được chỏm xương cánh tay nằm ở trung tâm ổ chảo.

Nguyên nhân trật khớp vai tái diễn:

– Do bất động không đủ thời gian sau khi nắn trật lần đầu tiên (thông thường cần bất động 3 – 4 tuần).

– Bong đứt nơi bám dây chằng ổ chảo cánh tay (Bankart) chiếm 52% đến 67% những trường hợp trật lại.

– Trật khớp vai có gãy mấu động lớn nguy cơ trật lại 23%.

– Vỡ chỏm xương cánh tay (Hill Sachs).

– Tổn thương bao khớp (Rách, dãn).

– Vỡ sụn viền ổ chảo (Bankart xương) (SLAP).

– Cơ địa phần mềm lỏng lẻo sẽ có nguy cơ trật khớp tái hồi nhiều hơn.

Tuổi bệnh nhân càng trẻ gặp trật tái diễn càng cao, do hoạt động mạnh và nhất là thiếu tập phục hồi chức năng sau khi nắn trật khớp.

1.4. Phân Loại

– Trật khớp ra trước vào trong: hay gặp nhất, chiếm tỉ lệ 75% của sai khớp vai, có thể ngoài mỏm quạ, dưới, trong mỏm quạ thể dưới đòn, càng vào trong càng nặng nề hơn.

– Trật khớp xuống dưới: chiếm tỉ lệ 23% của sai khớp vai.

– Trật khớp lên trên: chiếm tỉ lệ 1% của sai khớp vai.

– Trậti khớp ra sau: chiếm tỉ lệ 1% của sai khớp vai .

Hình 6. Các loại trật khớp vai.

1.4. Các tổn thương quanh khớp

– Tổn thương Bankart: Tổn thương Bankart là sự bóc tách điểm bám của dây chằng ổ chảo cánh tay, mà chủ yếu là dây chằng ổ chảo cánh tay giữa và dưới ra khỏi sụn viền ổ chảo.

Ngoài ra còn có tổn thương Bankart xương, tức là gãy (vỡ) miếng xương ổ chảo, rách hoặc mòn sụn viền ổ chảo do trật khớp vai tái hồi đa hướng. Tổn thương Bankart nếu không được phục hồi giải phẫu thì gặp trật tái hồi khoảng 67%.

– Tổn thương Hill Sachs: Đây là tổn thương do chỏm xương cánh tay bị cắm vào bờ ổ chảo lúc trật khớp vai; gặp khoảng 80% trong trật khớp vai ra trước; gặp 25% trong trật khớp vai ra sau và gặp 100% trong trật khớp vai tái diễn.

Hình 7. Tổn thương Hill – Sachs trên phim MRI dựng 3D ở bệnh nhân trật khớp vai tái diễn.

      

Hình 8. Tổn thương Hill – Sachs trên phim X-quang thường và MRI.

– Tổn thương bao khớp: Có thể tổn thương một phần hoặc hoàn toàn, hay gặp phần trước dưới của bao khớp do tư thế trật khớp vai ra trước, hơn nữa đây là vùng mỏng nhất của bao khớp (dưới 1mm), bình thường chỗ khác dày trên 1,5mm. Tổn thương bao khớp hoặc rách khoang chóp xoay làm tăng sự dịch chuyển ổ chảo và chỏm xương cánh tay.

– Tổn thương sụn viền trên (Superior Labral Lesions): Hintermann & Gachter nhận thấy có 7% bệnh nhân bị mất vững khớp vai có tổn thương sụn viền trên. Taylor & Arciero cũng gặp 10% bệnh nhân bị tổn thương sụn viền trên. Pagnari nghiên cứu trên xác, nhận thấy tổn thương sụn viền trên tham gia vào mất vững khớp vai.

     

Hình 9. Rách sụn viền, tổn thương Bankart sụn (MRI).

– Các tổn thương khác: tổn thương gân cơ chóp xoay, gân cơ nhị đầu , vỡ mấu động lớn, vỡ mấu động nhỏ.

Khi nói tới trật khớp vai tái diễn, nhất là trật ra trước, tổn thương trước tiên được nghĩ đến là tổn thương của bờ trước ổ chảo: sụn viền, bao khớp, dây chằng khớp (dây chằng giữa và dưới), viền xương bờ trước ổ chảo. Tuy nhiên, các tổn thương trong trật khớp vai tái diễn không chỉ đơn thuần thuộc về ổ chảo và các cấu trúc quanh nó mà còn bao gồm cả các tổn thương chỏm xương cánh tay. Tổn thương đó được gọi là tổn thương Hill-Sachs. Tổn thương Hill-Sachs có nhiều mức độ khác nhau tuỳ theo mức độ tổn xương của chỏm xương cánh tay. Mức độ tổn thương Hill-Sachs khá quan trọng vì đó có thể coi là yếu tố tiên lượng đối với lựa chọn cũng như kết quả điều trị trật khớp vai tái diễn. Một số trường hợp, việc điều trị trật vai tái diễn chỉ đơn thuần can thiệp vào bờ trước ổ chảo qua nội soi hoặc mổ mở nhưng một số trường hợp cần can thiệp cả vào phần chỏm xương cánh tay. Tổn thương Hill-Sachs là một tổn thương lún xương của vùng sau trên chỏm xương cánh tay xảy ra khi khớp vai bị trật ra trước. Năm 1940, Hill và Sachs đã mô tả tổn thương này là một đường đậm trên X-quang vai tư thế xoay trong. Nguyên nhân gây ra đường này là do va chạm cơ học của chỏm xương cánh tay lên bờ trước của ổ chảo trong trật khớp vai trước tái diễn nhiều lần. Tỷ lệ mắc tổn thương này trong trật khớp vai là tương đối cao và có thể đến xấp xỉ 100% ở những người trật khớp vai trước tái diễn. Tổn thương Hill-Sachs ngược cũng đã được mô tả ở những bệnh nhân trật khớp vai sau. Tổn thương mất xương ổ chảo thường đi kèm với tổn thương Hill-Sachs ở những bệnh nhân trật khớp vai trước tái diễn. Tổn thương này nên được coi là tổn thương “kép” (hay gọi là lưỡng cực) do luôn luôn kèm với tổn thương ổ chảo và việc xác định tổn thương xương ổ chảo kèm theo là cần thiết để tối ưu hoá kết quả điều trị.

2. Lâm sàng và chẩn đoán

2.1. Lâm sàng

– Bệnh Sử:

Bệnh nhân có tiền sử trật khớp vai sau một chấn thương hoặc tự phát, nhưng sau đó phát hiện trật lại một đến nhiều lần. Cần khai thác kỹ: Đã trật khớp vai mấy lần; động tác dễ gây trật nhất; lực tác động mạnh hay nhẹ.

– Triệu chứng:

+ Đau bất lựa vận động khớp vai.

+ Mỏm cùng vai dô.

+ Nhát rìu dưới mỏm cùng vai.

+ Cánh tay giạng chi ở tư thế bắt buộc.

+ Có dấu hiệu lò xo.

+ Sờ thấy chỏm ngoài hõm khớp, ổ chảo trống rỗng cần chụp X-quang để chuẩn đoán chính xác .

– Khám: Những bệnh nhân bị trật khớp vai tái hồi thì không còn những triệu chứng của trật khớp vai cấp tính nữa; như: đau, sưng khớp vai, bất lực vận động khớp vai, bầm tím da vùng vai nách, hõm nách rỗng (shoulder labral tears and instability 2007, p181). Khám lâm sàng chủ yếu để chẩn đoán mất vững khớp vai.

+ Test sợ (Apprehension test): được thực hiện bởi Neer & Foster, bệnh nhân ngồi hoặc đứng, vai dạng 90 độ và xoay ngoài; người khám một tay ép vào hõm vai, tay kia nắm cổ tay bẩy ra sau, kiểm tra mất vững ra trước của khớp vai. Hoặc bệnh nhân được nằm ngửa, vai dạng và xoay ngoài tối đa, tay người khám đè ưỡn khuỷu ra sau làm cho bệnh nhân có cảm giác đau hoặc lỏng khớp vai.

+ Test Ngăn kéo trước và test Ngăn kéo sau: bệnh nhân nằm ngửa, vai dạng 90 độ, khuỷu gấp 90 độ; một tay người khám cầm nắm đầu trên cánh tay bệnh nhân, tay kia cầm nắm khuỷu của bệnh nhân. Tay người khám nắm đầu trên cánh tay của bệnh nhân đưa ra trước (ngăn kéo trước), đưa ra sau (ngăn kéo sau) kiểm tra độ lỏng lẻo của khớp vai.

+ Test Hawking & Bokor (Load and Shift test): Xác định chính xác mức độ tải và thay đổi của khớp vai. Mục đích thang điểm đo độ dịch chuyển của chỏm xương cánh tay so với ổ chảo. Mất vững được chia thành 4 độ, từ 0 – 3+ tất cả 3 hướng ( trước, sau, xuống dưới); Test này rõ nhất là thực hiện dưới gây tê.

+ Dấu hiệu Sulcus (Sulcus sign): Dấu hiệu này dựa trên nền tảng ngăn kéo dưới. Dấu hiệu này được chỉ định trong mất vững khớp vai xuống dưới và đa hướng. Bệnh nhân trong tư thế ngồi, cánh tay của bệnh nhân ở bên cạnh thân người, đẩy xương cánh tay xuống dưới; khoảng cách giữa mỏm cùng vai và đầu trên xương cánh tay cũng được chia thành 4 độ, từ 0 – 3+; khi đánh giá độ 2 trở lên, tức là bao khớp giãn rộng, đặc biệt lỏng bao khớp vùng trước dưới.

Ngoài ra còn một số test khác nữa, đồng thời cũng khám luôn dấu hiệu của viêm gân cơ nhị đầu, gân cơ chóp xoay, cũng như những tổn thương thần kinh, mạch máu…

2.2. Cận Lâm Sàng

– Chụp XQ khớp vai: khớp vai được chụp XQ ba tư thế là thẳng, nghiêng, chếch 25 độ (đèn từ sau dưới nách); Chụp lấy hình ảnh tổn thương Hill Sachs là chụp thẳng trước sau, cánh tay xoay trong tối đa.

– Chụp CTscan và MRI: CTscan đánh giá 3 chiều những tổn thương xương, giúp chúng ta chỉ định phương pháp mổ, tiên lượng và chế độ luyện tập.

MRI giúp đánh giá toàn diện cả phần mềm: dây chằng ổ chảo cánh tay, sụn viền cũng như xương ổ chảo cánh tay, gân cơ chóp xoay, bao hoạt dịch mỏm cùng vai, dây chằng khớp cùng đòn. đưa tới phương án điều trị hiệu quả nhất.

2.3. Chẩn Đoán

Dựa vào bệnh sử có trật khớp vai từ 2 lần trở lên.

Dựa vào XQ, CTscan, MRI để xác định tổn thương quanh khớp vai.

3. Điều trị

– Mục tiêu điều trị: Trả lại giải phẫu của khớp vai, trả lại chức năng ban đầu như lúc chưa bị trật.

– Nguyên tắc điều trị:

+ Điều trị bảo tồn những trường hợp nhẹ; trường hợp già yếu.

+ Điều trị phẫu thuật (mổ mở hoặc mổ nội soi) những trường hợp tổn thương nặng, người trẻ năng động, vận động viên thể thao.

+ Tập phục hồi chức năng theo quy trình.

3.1. Điều Trị Bảo Tồn

Khớp vai được nắn lại tương tự nắn trong trật khớp vai lần đầu:

– Phương pháp gót, nách (Hyppoerate):

Bệnh nhân nằm ngửa bàn chỉnh hình , người nắn chỉnh ngồi cạnh bệnh nhân , ấn gót chân của mình vào hõm nách của bệnh nhân , 2 tay cầm cổ tay của bênh nhân kéo theo trục. Khi nghe tiếng khục là được.Lưc nắn chỉnh phải từ từ tăng dần , không dật cục , đề phòng gãy xướng.

– Phương pháp 4 thì (Kocher):

+ Thì 1: Khuỷu gập 90°, kéo cánh tay theo trục.

+ Thì 2: Xoay cánh tay ra ngoài.

+ Thì 3: Khép và đưa cánh tay ra trước ngực.

+ Thì 4: Xoay cánh tay vào trong, bàn tay sang vai lành.

Yêu cầu: Các thì liên tục, khi làm thì 4 vẫn còn kéo cánh tay.

– Phương pháp dùng đai da (Mother):

Áp dụng cho sai khớp đến muộn khó nắn chỉnh.

Bệnh nhân nằm ngửa trên bàn chỉnh hình. dùng đai da quàng qua dưới nách bị sai khớp, cố định đai da vào bàn hoặc vào tường .

Phụ 1: cầm cổ tay bệnh nhân kéo giạng (càng giạng càng tốt)

Y sinh trực tiếp đẩy chỏm vào ổ khớp.

– Phương pháp (Dfanelidfe):

Bệnh nhân nằm ngửa, tay sai khớp buông thông ra ngoài mép bàn chỉnh hình, để trọng lượng chi tự kéo dãn sau 20-30 phút, người nắn chỉnh đẩu chỏm vào hõm .

Sau nắn chỉnh:

Dù thực hiện phương pháp nào, sau khi nghe tiếng khục, phải kiểm tra gẫp duỗi, dạng khép khớp, nếu vận động dễ dàng là đã vào khớp, sau đó cho nẹp bột cố định khớp vai ở tư thế khớp chức năng, thời gian cố định với trật khớp lần đầu từ 3 – 4 tuần. Với trật khớp vai tái diễn thì tùy mức độ lỏng khớp cho bất động 1 – 2 tuần, sau đó cho tập vẫn động từ từ, tăng dần. Có khi bản thân bệnh nhân cũng tự nắn được. Tỷ lệ trật lại cao.

Trong sinh hoạt và lao động, bệnh nhân cần tránh các động tác dạng, xoay ngoài và đưa cánh tay ra sau, tránh đưa tay cao quá đầu. Cần tập phục hồi chức năng áp dụng các bài tập làm mạnh các cơ chóp xoay, mạnh cơ ngực lớn và cơ delta để giữ vững khớp vai.

Row and Sakellaride thấy tỷ lệ tái trật lại 58% bệnh nhân, tỉ lệ tái phát liên quan đến tuổi, dưới 20 tuổi tỷ lệ tái phát 94%, từ 20 – 40 tuổi là 79%; trên 40 tuổi là 14%.

Arciero: so sánh giữa nhóm mổ và nhóm không mổ khớp vai bị trật, thấy nhóm không mổ bị trật lại 86%. Nhóm mổ có 14% trật lại.

Killy: Nghiên cứu ở những bệnh nhân bị tổn thương Bankart, thì nhóm không mổ có 47% bị trật lại, còn nhóm có mổ là 15,9%.

3.2. Điều trị bằng phẫu thuật

3.2.1. Mổ m

Hiện nay nhiều phẫu thuật vẫn được áp dụng, khi mảnh vỡ xương sụn lớn trên 1/3 đường kính ổ chảo, khả năng mổ nội soi thất bại. Nhược điểm: tàn phá mô mềm nhiều, tập PHCN chậm, dễ nhiễm trùng. Nhiều phương pháp được kể đến, như:

– Phẫu thuật Bankart: Phục hồi sụn viền trước và bao khớp.

– Phẫu thuật Putti-Platt: Tái tạo cơ dưới vai hoặc dời vị trí bám tận gân cơ dưới vai trong trường hợp không làm được bằng nội soi.

– Phẫu thuật Davi P. Huberty: Ghép xương bờ trước ổ chảo bằng xương tự thân hoặc đồng loại (xương mào chậu).

– Phẫu thuật Stephen S. Burkhart: Chuyển mỏm quạ xuống trám vào bờ trước ổ chảo bị khuyết. Kỹ thuật này được thực hiện khi phẫu thuật nội soi không làm được.

– Phẫu thuật Davit P.Huberty – Stephen S. Burkhart: Chuyển nơi bám của gân cơ dưới gai vào chỗ khuyết Hill Sachs. Kỹ thuật này cũng được áp dụng khi phẫu thuật nội soi thất bại.

3.2.2. Mổ nội soi

Nội soi giúp khảo sát chính xác những tổn thương, điều trị kịp thời, triệt để và không tàn phá mô mềm, ít đau sau mổ, tập PHCN sớm.

– Cắt lọc mô viêm, bộc lộ vùng tổn thương.

– Khâu bao khớp – sụn viền bằng chỉ neo (Suture anchors).

– Khâu bao khớp bằng chỉ Fiberwire.

– Đính lại mảnh xương sụn vỡ qua nội soi hoặc ghép xốp qua nội soi.

– Cắt lọc khâu lại gân cơ chóp xoay bị rách bằng chỉ neo, mối rời.

– Sau 3 – 5 ngày ra viện được, cắt chỉ sau 7 – 10 ngày.

3.2.3. Phục hồi chức năng sau mổ

– Chườm đá (trong túi chườm lạnh) vùng vai trong vòng 48h sau mổ.

– Tay mổ được đeo đai vai trong 4 – 6 tuần.

– Tập sớm ngay ngày đầu tiên bằng gồng cơ, co duỗi khuỷu tay, cổ tay bàn tay và các ngón tay.

– 3 tuần đầu tập vận động chủ động có trợ giúp. Tập sức cơ bằng gồng cơ.

Hạn chế xoay ngoài, không đưa tay ra sau.

– Sau 4 tuần tập vai thả lỏng, đưa tay ra trước và ra sau nhẹ nhàng được. Xoay ngoài khoảng 20 độ, xoay trong khoảng 10 độ.

– Sau 8 tuần tập chủ động đưa tay ra trước, ra sau với biên độ rộng hơn, tập dạng tay, và tập bàn tay đi bộ trên tường.

– Sau 3 tháng tập mạnh sức cơ, tăng xoay ngoài và các bài tập kéo dãn bao khớp.

– Sau 6 tháng tập vận động chuyên ngành thể thao.

BÌNH LUẬN

WORDPRESS: 0