TỔNG QUAN LÂM SÀNG: Rau cài răng lược (Placenta Accreta), Rau xâm lấn (Percreta), Rau đâm xuyên (Increta)
Rebecca Horgan, MD và Alfred Abuhamad, MD. Trích từ Horgan R và cộng sự. Phổ rau cài răng lược: chẩn đoán và xử trí trước sinh. Obstet Gynecol Clin N Am.;49(3):423-438.
Cập nhật ngày 20 tháng 9 năm 2024. Bản quyền Elsevier BV.
Dịch và chú giải: Ths.Bs. Lê Đình Sáng
Tóm tắt
Điểm chính
- PAS (Placenta Accreta Spectrum – phổ rau cài răng lược) là một tình trạng đe dọa tính mạng do chảy máu
- Tỷ lệ mắc PAS đang gia tăng do tỷ lệ mổ lấy thai tăng
- Việc xác định bệnh nhân có PAS trước phẫu thuật là rất quan trọng để lập kế hoạch phẫu thuật và phối hợp chăm sóc đa chuyên khoa
- Mổ lấy thai và rau tiền đạo là những yếu tố nguy cơ lớn nhất của phổ rau cài răng lược (PAS)
- Siêu âm là phương pháp chẩn đoán ưu tiên cho PAS và việc duy trì mức độ nghi ngờ lâm sàng cao là cần thiết, đặc biệt ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ đáng kể
- Các dấu hiệu siêu âm của PAS bao gồm nhiều khoang mạch máu, mất vùng giảm âm sau rau, bất thường ở mặt phân cách tử cung-bàng quang, độ dày cơ tử cung sau rau dưới 1mm, tăng mạch máu rau và quan sát thấy các mạch máu nối liền rau với bàng quang
- Bệnh nhân PAS nên được quản lý bởi nhóm đa chuyên khoa có kinh nghiệm về PAS và sinh ở tuần 34 đến 35+6 tuần tại trung tâm cấp III hoặc cấp IV có đủ chuyên khoa phụ và cơ sở chăm sóc tích cực
- Phẫu thuật cắt tử cung là phương pháp điều trị được chấp nhận cho PAS và các phương pháp bảo tồn hoặc theo dõi đối với PAS nên được xem là thử nghiệm
Thông tin cơ bản
Thuật ngữ
- PAS (phổ rau cài răng lược)
Thông tin nền
- PAS là thuật ngữ dùng để mô tả rau cài răng lược, rau xâm lấn và rau đâm xuyên
- Rau cài răng lược xảy ra khi các nhung mao rau bám trực tiếp vào cơ tử cung
- Rau xâm lấn xảy ra khi các nhung mao rau xâm nhập vào cơ tử cung
- Rau đâm xuyên xảy ra khi các nhung mao rau xâm nhập qua cơ tử cung vào thanh mạc
- Một phân tích tổng hợp năm 2019 cho thấy trong số các bệnh nhân mắc PAS:
- 63% là rau cài răng lược
- 15% là rau xâm lấn
- 22% là rau đâm xuyên
- Rau cài răng lược có thể được phân loại thêm thành rau cài răng lược toàn bộ, rau cài răng lược một phần, hoặc rau cài răng lược khu trú tùy theo lượng mô rau bám dính vào cơ tử cung
- PAS là một biến chứng lớn của thai kỳ với tỷ lệ bệnh tật và tử vong mẹ đáng kể, đặc biệt do chảy máu đe dọa tính mạng
- Bảy mươi phần trăm bệnh nhân được chẩn đoán PAS phải trải qua phẫu thuật cắt tử cung khi mổ lấy thai
- PAS hiện là nguyên nhân phổ biến nhất của cắt tử cung khi mổ lấy thai ở các nước phát triển
Dịch tễ học
- Tỷ lệ mắc PAS đã tăng đáng kể trong vài thập kỷ qua, và tỷ lệ hiện nay khoảng 3 trên 1000 ca sinh
- Tỷ lệ PAS tăng chủ yếu do tỷ lệ mổ lấy thai tăng trong những thập kỷ gần đây
Nguyên nhân và Yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân
- Sinh lý bệnh của PAS vẫn chưa rõ ràng
- Lý thuyết nổi bật nhất là sau phẫu thuật tử cung, sự bất thường về mạch máu trong quá trình tạo sẹo dẫn đến thiếu oxy cục bộ thứ phát và rối loạn hình thành màng rụng, do đó cho phép sự xâm nhập nguyên bào nuôi quá mức xảy ra trong quá trình hình thành rau thai
Yếu tố nguy cơ
- Có một số yếu tố nguy cơ phát triển PAS
- Mổ lấy thai trước đó và rau tiền đạo là những yếu tố nguy cơ lớn nhất của PAS
- Hơn nữa, số lần mổ lấy thai trước đó tỷ lệ thuận với nguy cơ PAS, với nguy cơ lên đến 67% ở những bệnh nhân có 4 lần mổ lấy thai trước đó và rau tiền đạo
- Điều quan trọng cần lưu ý là ngay cả ở những bệnh nhân không có tiền sử mổ lấy thai trước đó, sự hiện diện của rau tiền đạo cũng liên quan đến 3% nguy cơ PAS
- Khi không có rau tiền đạo, một nghiên cứu tổng quan hệ thống cho thấy tỷ lệ PAS tăng từ 0,3% ở phụ nữ có 1 lần mổ lấy thai trước đó lên 6,74% ở phụ nữ có từ 5 lần mổ lấy thai trở lên
- Các yếu tố nguy cơ bổ sung của PAS bao gồm:
- Tuổi mẹ cao
- Đa thai
- Phẫu thuật tử cung trước đó
- Xạ trị tử cung trước đó
- Đốt nội mạc tử cung
- Hội chứng Asherman
- U xơ tử cung
- Dị dạng tử cung
- Các rối loạn tăng huyết áp
- Hút thuốc lá
- Thai làm tổ ở sẹo mổ lấy thai thường được xem là yếu tố nguy cơ của PAS
- Tuy nhiên, do mô học giống nhau giữa 2 tình trạng này, chúng có thể đại diện cho một phổ liên tục của cùng một tình trạng
- Nhìn chung, 80% bệnh nhân PAS có tiền sử mổ lấy thai trước đó, nạo hút thai hoặc bóc u xơ tử cung
Chẩn đoán
Cách tiếp cận chẩn đoán
- Chẩn đoán chính xác PAS (phổ rau cài răng lược) trước sinh là rất quan trọng để lập kế hoạch phẫu thuật, phối hợp chăm sóc đa chuyên khoa và chuyển bệnh nhân đến trung tâm chuyên sâu khi thích hợp
- Sinh trước khi chuyển dạ và tránh bong rau là rất quan trọng để tối ưu hóa kết quả cho mẹ
- Một phân tích tổng hợp năm 2018 cho thấy chẩn đoán PAS trước sinh giúp giảm đáng kể lượng máu mất (chênh lệch trung bình 0,9 L) và số đơn vị hồng cầu cần truyền (chênh lệch trung bình 1,5 đơn vị) so với phụ nữ được chẩn đoán PAS trong mổ
- Chẩn đoán PAS trước sinh thường bằng siêu âm vì hầu hết bệnh nhân bị rau cài răng lược đều không có triệu chứng
- Bệnh nhân có thể có ra máu âm đạo và cơn co thắt vì hầu hết các ca PAS xảy ra kèm theo rau tiền đạo
- Tuy nhiên, chẩn đoán trong mổ cũng thường xảy ra, phổ biến nhất ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ đáng kể
- Do đó, việc duy trì mức độ nghi ngờ lâm sàng cao là rất quan trọng, đặc biệt ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ đáng kể
- Bệnh nhân có nguy cơ PAS nên được chuyển đến các trung tâm có chuyên môn về tình trạng này vì một số nghiên cứu đã cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các người đọc và độ nhạy thấp hơn trong chẩn đoán
- Siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng nhất cho PAS
- Siêu âm đã được chứng minh có độ nhạy 90,72% (KTC 95%, 87,2-93,6) và độ đặc hiệu 96,94% (KTC 95%, 96,3%-97,5%) cho chẩn đoán PAS
- Điều quan trọng cần lưu ý là không có đặc điểm siêu âm nào của PAS hoặc sự kết hợp của các đặc điểm có thể dự đoán đáng tin cậy độ sâu xâm lấn của PAS, ngoại trừ việc thấy mô rau xâm nhập vào các cơ quan vùng chậu lân cận
- Phương pháp siêu âm qua âm đạo để đánh giá rau thai cho phép độ phân giải cao hơn, giúp tăng khả năng quan sát
- Điều này cho phép xác nhận rau tiền đạo kèm theo, đánh giá thành sau bàng quang và đánh giá mức độ xâm lấn của rau vào mô cổ tử cung
- Hơn 80% ca PAS xảy ra kèm theo rau tiền đạo
- Sự tăng sinh mạch máu ở rau và đoạn dưới tử cung có thể được đánh giá thêm bằng cách sử dụng Doppler màu ở tốc độ thấp
Các xét nghiệm
Các nghiên cứu hình ảnh
- Làm tổ ở đoạn dưới tử cung được định nghĩa là túi thai làm tổ ở một phần ba dưới của tử cung giữa tuần 8 và 10 hoặc chủ yếu chiếm đoạn dưới tử cung từ tuần 10 trở đi
- Điều quan trọng cần lưu ý là không phải tất cả các túi thai làm tổ ở đoạn dưới tử cung đều dẫn đến PAS
- Trong thai kỳ bình thường, sẽ thấy cơ tử cung phía trước dày phía trên túi thai và mặt phân cách giữa tử cung-bàng quang trên siêu âm
- Trong các trường hợp PAS, cơ tử cung phía trước có vẻ mỏng và mặt phân cách rau-cơ tử cung và tử cung-bàng quang thường có vẻ bất thường
- Trong siêu âm tam cá nguyệt đầu, điều quan trọng là phải phân biệt PAS nghi ngờ với thai làm tổ ở sẹo mổ lấy thai
- Trong thai làm tổ ở sẹo mổ lấy thai thật sự, sự làm tổ xảy ra trong cơ tử cung và mô sẹo của vết mổ lấy thai, và túi thai thường có hình ô van hoặc tam giác (Hình 1-3)
Hình 1. Mặt phẳng giữa đứng dọc của tử cung trên siêu âm qua âm đạo cho thấy túi thai làm tổ thấp ở tuần thai thứ 6 ở bệnh nhân không có tiền sử mổ lấy thai. Lưu ý túi thai có hình tròn (mũi tên) và nằm ở phần giữa của đoạn dưới tử cung. C, cổ tử cung.
Hình 2. Mặt phẳng giữa đứng dọc của tử cung trên siêu âm qua âm đạo cho thấy dày rau (mũi tên đôi) trên cổ tử cung và các khoang (dấu sao) ở tuần thứ 9 ở bệnh nhân có 3 lần mổ lấy thai trước đó. Những phát hiện này gợi ý sự làm tổ bất thường trong tam cá nguyệt một với nguy cơ phổ rau cài răng lược.
Hình 3. Mặt phẳng giữa đứng dọc của tử cung trên siêu âm qua âm đạo cho thấy thai làm tổ ở sẹo mổ lấy thai ở tuần thai thứ 9. Lưu ý hình bầu dục của túi thai (GS) và mỏng cơ tử cung phía trước (mũi tên). C, cổ tử cung; F, đáy tử cung.
- Sự hiện diện của nhiều khoang mạch máu trong rau ở tam cá nguyệt hai và ba của thai kỳ có độ nhạy cao và tỷ lệ dương tính giả thấp cho sự hiện diện của PAS
- Các khoang rau được cho là phát triển do các thay đổi mô rau vì phơi nhiễm lâu dài với dòng máu có tốc độ cao, xung động
- Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là các khoang rau có thể hiện diện trong rau bình thường, đặc biệt khi không có rau tiền đạo, và không phải tất cả các trường hợp PAS sẽ thể hiện các khoang rau
- Các khoang rau có độ nhạy từ 73% đến 100% và giá trị dự đoán âm từ 88% đến 100% cho chẩn đoán của PAS
- Số lượng khoang rau càng nhiều, đặc biệt là khi có hơn 4 khoang, càng làm tăng nguy cơ rau cài răng lược ở thai phụ có rau tiền đạo
- Sự hiện diện của nhiều khoang mạch máu trong rau, thường được gọi là hình ảnh “phô mai Thụy Sĩ”, là một trong những dấu hiệu siêu âm quan trọng nhất của rau cài răng lược trong tam cá nguyệt hai và ba
- Doppler màu sẽ cho thấy dòng chảy trong khoang rau có tính chất rối
- Điều quan trọng cần lưu ý là các khoang rau có ý nghĩa nhất khi kết hợp với rau tiền đạo và đặc biệt khi các khoang này gần vùng cổ tử cung nhất
- Mất vùng giảm âm sau rau là một dấu hiệu siêu âm khác của PAS với độ nhạy 52% và độ đặc hiệu 57%
- Với tỷ lệ dương tính giả 21%, giá trị thực sự của dấu hiệu siêu âm này nằm ở giá trị dự đoán âm từ 96% đến 100%
- Do đó, PAS ít có khả năng xuất hiện khi có một vùng giảm âm sau rau rõ ràng kéo dài dọc theo chiều dài của rau
- Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là dấu hiệu này khó đánh giá và đòi hỏi phải quét dọc theo chiều dọc của rau với áp lực tối thiểu của đầu dò trên bụng
- Đây là một dấu hiệu quan trọng để đánh giá rau cài răng lược khu trú, vì những thai kỳ này thường thiếu nhiều dấu hiệu kinh điển của PAS (Hình 4)
Hình 4. Mặt phẳng giữa đứng dọc của tử cung trên siêu âm qua âm đạo ở tuần thai 28 cho thấy rau tiền đạo, khoang lớn (dấu sao) và mất khu trú vùng giảm âm sau rau (mũi tên). Những phát hiện này gợi ý phổ rau cài răng lược. C, cổ tử cung; P, rau.
- Bất thường ở mặt phân cách tử cung-thanh mạc-bàng quang là một dấu hiệu siêu âm khác của PAS
- Các bất thường này bao gồm gián đoạn mặt phân cách, dày lên của mặt phân cách, bất thường của mặt phân cách, hoặc tăng mạch máu trên Doppler màu
- Khi sử dụng phương pháp siêu âm qua âm đạo và Doppler màu, độ đặc hiệu cho các bất thường của mặt phân cách thanh mạc-bàng quang đạt 99%, và các giá trị dự đoán dương và âm lần lượt là 96% và 92%
- Độ dày cơ tử cung sau rau dưới 1mm là một dấu hiệu siêu âm của PAS với độ nhạy được báo cáo từ 22% đến 100% và độ đặc hiệu từ 72% đến 100%
- Điều quan trọng cần lưu ý là cơ tử cung ở đoạn dưới sẽ mỏng dần theo tuổi thai và những bệnh nhân có tiền sử mổ lấy thai trước đó sẽ có đoạn dưới tử cung mỏng hơn với độ dày cơ tử cung trung bình là 2,4mm trong tam cá nguyệt ba (Hình 5)
Hình 5. Siêu âm qua thành bụng của đoạn dưới tử cung trong tam cá nguyệt hai muộn cho thấy nhiều dấu hiệu siêu âm của phổ rau cài răng lược bao gồm dày rau (mũi tên đôi), nhiều khoang (dấu sao), và mất vùng giảm âm sau rau (mũi tên nhỏ).
- Tăng mạch máu rau thai được thể hiện trên Doppler màu đã được mô tả trong y văn như một dấu hiệu của PAS vì nó giúp phân biệt các đám rối tĩnh mạch dưới rau bình thường với các kênh mạch máu ngoại vi dưới rau giãn rộng có dòng chảy kiểu tĩnh mạch xung động, gợi ý PAS
- Điều quan trọng cần lưu ý là với sự tiến bộ trong công nghệ siêu âm và khả năng hiển thị dòng chảy vận tốc thấp hiện nay, hầu hết các rau thai bình thường sẽ cho thấy tăng sinh mạch máu rộng rãi, do đó làm khó khăn hơn trong việc phân biệt rau bình thường với rau PAS
- Cuối cùng, quan sát thấy các mạch máu nối liền rau và bàng quang với dòng chảy động mạch có tâm trương cao cũng gợi ý PAS
- Đây là một phát hiện quan trọng vì nó gợi ý sự hiện diện của rau đâm xuyên với dòng chảy mạch máu đi kèm mô rau ra ngoài khoang tử cung
- Trong đánh giá siêu âm các thai kỳ có nguy cơ PAS, chúng tôi khuyến cáo siêu âm lần đầu trong tam cá nguyệt một, sau đó siêu âm ở tuần 18 đến 20 và sau đó hàng tháng do có khả năng xâm lấn rau thai tiến triển theo tuổi thai
- Chúng tôi khuyến cáo mạnh mẽ việc có một quy trình và đảm bảo đánh giá kỹ lưỡng rau thai trên nhiều mặt phẳng
- Siêu âm qua âm đạo là rất quan trọng trong đánh giá vùng cổ tử cung và đoạn dưới tử cung trong các thai kỳ có nguy cơ PAS (Hình 6-8)
Hình 6. Siêu âm qua thành bụng ở tuần thai 33 cho thấy các mạch máu chéo nhau ở rau bám mặt trước (mũi tên lớn màu đỏ và xanh). Hơn nữa, lưu ý mất vùng giảm âm sau rau ở một vùng khu trú của rau (mũi tên nhỏ). Những phát hiện này gợi ý phổ rau cài răng lược.
Hình 7. Mặt phẳng giữa đứng dọc của tử cung trên siêu âm qua âm đạo ở tuần thai 26 cho thấy rau tiền đạo, một khoang mạch máu lớn (dấu sao) đi từ rau đến mô cổ tử cung và dày rau. Những phát hiện này gợi ý phổ rau cài răng lược. B, bàng quang; C, cổ tử cung; P, rau.
Hình 8. Mặt phẳng giữa đứng dọc của cổ tử cung trên siêu âm qua âm đạo ở tuần thai 22 cho thấy rau tiền đạo, một khoang mạch máu lớn (L) với xâm lấn mạch máu vào mô cổ tử cung. Những phát hiện này gợi ý phổ rau cài răng lược. C, cổ tử cung; P, rau.
- Các đặc điểm MRI liên quan đến PAS bao gồm các dải tối trong rau trên hình ảnh T2, phình to bất thường của rau hoặc tử cung, rối loạn vùng giữa tử cung và rau, và các mạch máu rau bất thường hoặc mất tổ chức
- Các nghiên cứu đến nay cho thấy MRI dường như không vượt trội hơn siêu âm trong độ chính xác chẩn đoán PAS
- MRI có thể hữu ích như một phương tiện bổ sung cho siêu âm trong các trường hợp nghi ngờ PAS khi rau nằm ở phía sau hoặc bên
- Ngoài ra, MRI có thể hữu ích để đánh giá độ sâu xâm lấn của rau thai, phân biệt rau cài răng lược với rau xâm lấn
- Tuy nhiên, điều này chỉ có ý nghĩa lâm sàng nếu phương pháp điều trị của bệnh nhân phụ thuộc vào mức độ xâm lấn của rau
- Hơn nữa, có một số lo ngại rằng MRI thậm chí có thể dẫn đến sửa đổi không chính xác chẩn đoán PAS dựa trên siêu âm
- MRI đắt tiền hơn siêu âm, ít sẵn có hơn, và ít bác sĩ lâm sàng có chuyên môn về đánh giá rau thai trên MRI
- Do đó, chúng tôi không khuyến cáo sử dụng thường quy MRI để đánh giá khả năng PAS
- Alpha-fetoprotein huyết thanh mẹ tăng không rõ nguyên nhân (>2.5 lần trung vị) đã được liên quan đến PAS
- Tuy nhiên, đây không phải là một phát hiện nhất quán và không nên được sử dụng một mình để chẩn đoán vì alpha-fetoprotein huyết thanh mẹ bình thường không loại trừ chẩn đoán PAS
- Dữ liệu sơ bộ có thể gợi ý vai trò của các dấu ấn sinh hóa trong chẩn đoán PAS
Điều trị
Cách tiếp cận điều trị
- Khuyến cáo rằng bệnh nhân PAS (phổ rau cài răng lược) nên sinh tại trung tâm cấp III hoặc cấp IV do có sẵn đội ngũ y tế thích hợp được đào tạo về xử trí các tình trạng sản khoa phức tạp, bao gồm PAS, cùng với việc tiếp cận các chuyên khoa phụ và cơ sở chăm sóc tích cực
- Việc quản lý bệnh nhân PAS nên theo cách tiếp cận chuẩn hóa với chăm sóc đa chuyên khoa có kinh nghiệm trong xử trí PAS. Các thành viên nhóm có thể bao gồm:
- Chuyên khoa sản phụ khoa thai nhi
- Phẫu thuật viên chậu hông có kinh nghiệm
- Sơ sinh học
- Đội ngũ điều dưỡng lành nghề
- Đội ngũ ngân hàng máu
- Đội ngũ gây mê
- Bác sĩ hồi sức tích cực
- Niệu khoa
- X quang can thiệp
- Bất kỳ bệnh nhân nào có nguy cơ cao PAS cũng nên được chuyển đến các trung tâm xuất sắc để sinh. Điều này có thể bao gồm bệnh nhân:
- Nghi ngờ PAS trên siêu âm
- Rau tiền đạo với hình ảnh siêu âm bất thường
- Rau tiền đạo với tiền sử từ 3 lần mổ lấy thai trở lên
- Tiền sử mổ lấy thai kinh điển và rau bám mặt trước
- Thai kỳ với tiền sử đốt nội mạc tử cung
- Xạ trị vùng chậu
- Đã chứng minh được cải thiện về bệnh suất ở mẹ khi phụ nữ được sinh tại các bệnh viện chuyên khoa với đội ngũ đa chuyên khoa có kinh nghiệm trong xử trí PAS
- PAS là một tình trạng có thể đe dọa tính mạng do nguy cơ chảy máu ồ ạt. Chảy máu ồ ạt có thể dẫn đến:
- Đông máu rải rác trong lòng mạch
- Hội chứng suy hô hấp người lớn
- Tổn thương phổi cấp liên quan đến truyền máu
- Suy thận
- Tử vong
- Do đó, khi PAS được chẩn đoán hoặc nghi ngờ trong giai đoạn thai không đủ tháng, phụ nữ nên được tư vấn về lựa chọn chấm dứt thai kỳ
- Không có dữ liệu về mức độ giảm nguy cơ với việc chấm dứt thai kỳ trong các trường hợp PAS vì bản thân việc chấm dứt thai kỳ cũng mang nguy cơ đáng kể cho phụ nữ mắc PAS
- Thời điểm sinh ở bệnh nhân PAS cần cân nhắc cả nguy cơ và lợi ích cho mẹ và thai nhi
- Mổ lấy thai kèm cắt tử cung trước khi chuyển dạ đã được chứng minh cải thiện kết quả cho mẹ
- Hội Y học Bà mẹ Thai nhi khuyến cáo sinh giữa tuần 34 và 35+6 vì hơn một nửa số bệnh nhân PAS sẽ bị chảy máu âm đạo sau tuần 36 của thai kỳ
- Sinh sớm hơn được chỉ định ở bệnh nhân có chảy máu âm đạo dai dẳng, tiền sản giật nặng, chuyển dạ, vỡ ối non, hoặc có bằng chứng thai suy
- Bệnh nhân PAS nên được dùng corticosteroid trước sinh để tăng trưởng thành phổi thai nhi trước khi sinh, phù hợp với các khuyến cáo hiện tại dựa trên tuổi thai
- Nên tránh thăm khám âm đạo cũng như tránh hoạt động thể chất mạnh
- Cân nhắc nhập viện nếu có chảy máu âm đạo hoặc cơn co tử cung hoặc nếu bệnh nhân đang trong tam cá nguyệt ba và sống xa trung tâm chuyên về xử trí PAS
- Điều cần thiết là bệnh nhân PAS phải sinh tại các bệnh viện có ngân hàng máu có khả năng thực hiện các quy trình truyền máu hàng loạt
- Lượng máu mất trung bình khi mổ lấy thai kèm cắt tử cung do PAS là từ 3000 đến 5000 ml
- Khuyến cáo thông báo và phối hợp với ngân hàng máu do thường xuyên cần truyền máu hàng loạt trong các ca PAS
- Chúng tôi khuyến cáo chuẩn bị chéo 4 đến 6 đơn vị hồng cầu khối khi bệnh nhân nhập viện để sinh và đảm bảo có sẵn đầy đủ huyết tương tươi đông lạnh, cryoprecipitate và tiểu cầu trước thủ thuật
- Tối ưu hóa nồng độ hemoglobin của bệnh nhân trước sinh là rất quan trọng
- Ở bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt, cần cố gắng điều trị đầy đủ trước khi sinh. Điều này có thể bao gồm:
- Bổ sung sắt đường uống
- Truyền sắt tĩnh mạch
- Thuốc kích thích tạo hồng cầu
Các thủ thuật điều trị
- Trước khi tiến hành phẫu thuật điều trị PAS, cần có đường truyền tĩnh mạch đầy đủ với tối thiểu 2 đường truyền cỡ lớn
- Đường động mạch cũng có thể hữu ích để theo dõi huyết áp xâm lấn trong mổ
- Nên sử dụng thiết bị nén khí trong mổ vì chảy máu, truyền máu và phẫu thuật kéo dài đều là yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu
- Gây mê toàn thân thường được sử dụng nhất nhưng gây tê vùng cũng là lựa chọn hợp lý
- Đặt ống thông foley 3 chạch hữu ích nếu cần đánh giá đường tiết niệu trong mổ
- Chúng tôi không khuyến cáo soi bàng quang thường quy cho tất cả bệnh nhân PAS
- Tuy nhiên, soi bàng quang hữu ích để phân biệt giải phẫu nếu nghi ngờ có xâm lấn bàng quang
- Trong những trường hợp này, chúng tôi khuyến cáo phối hợp với tiết niệu hoặc phẫu thuật ung thư phụ khoa
- Đặt ống thông niệu quản trước mổ thường được thực hiện trong các ca PAS có xâm lấn bàng quang, nhưng giá trị của nó vẫn chưa rõ ràng
- Việc sử dụng các can thiệp nội mạch dự phòng trong PAS như đặt bóng hai bên động mạch chậu, nút mạch tử cung, hoặc kết hợp cả hai để giảm mất máu vẫn còn gây tranh cãi
- Hiện không thể dự đoán được những bệnh nhân nào có thể được lợi từ các can thiệp nội mạch
- Một số nghiên cứu đã chứng minh giảm mất máu với tắc động mạch chậu trong khi các nghiên cứu khác thì không
- Một phân tích tổng hợp đánh giá việc sử dụng can thiệp nội mạch X quang trên hơn 950 bệnh nhân PAS cho thấy giảm lượng máu mất (chênh lệch trung bình -1,02 L, KTC 95%, -1,6 đến -0,43 L)
- Điều này không chuyển thành giảm có ý nghĩa thống kê về nhu cầu truyền các sản phẩm máu
- 5% bệnh nhân được ghi nhận có biến chứng liên quan đến thủ thuật
- Tụ máu vùng bẹn và sau phúc mạc là những biến chứng liên quan thường gặp nhất nhưng cũng đã có báo cáo về các biến cố hiếm gặp như biến chứng huyết khối hoặc thuyên tắc
- Trong trường hợp có kế hoạch can thiệp nội mạch, việc sinh nở nên được thực hiện trên bàn chiếu X quang để có thể tiến hành thủ thuật ngay sau khi sinh thai
- Thiếu dữ liệu so sánh về cách rạch da tối ưu cho bệnh nhân PAS
- Nhiều bác sĩ sẽ sử dụng đường rạch dọc giữa để tiếp cận và quan sát, nhưng đường rạch ngang như đường Maylard hoặc Cherney cũng là lựa chọn hợp lý
- Siêu âm đánh giá vị trí rau thai trước/trong mổ có thể hữu ích để lập kế hoạch đường rạch tử cung nhằm tránh làm rách rau và chảy máu khi sinh thai
- Nỗ lực tránh rau có thể đòi hỏi đường rạch tử cung không truyền thống
- Sau khi kẹp và cắt dây rốn, chúng tôi khuyến cáo buộc chặt dây rốn và đóng vết rạch tử cung một cách kịp thời để hỗ trợ cầm máu trước khi tiến hành hoàn thành cắt tử cung với rau còn nguyên vị trí
- Việc tránh bóc tách rau cưỡng bức là rất quan trọng vì chảy máu ồ ạt thường xảy ra
- Nếu không chắc chắn về chẩn đoán PAS, có thể theo dõi bong rau tự nhiên trong điều kiện bệnh nhân ổn định huyết động
- Không nên sử dụng oxytocin dự phòng sau khi sinh thai vì có thể xảy ra bong rau một phần và chảy máu ồ ạt
- Tranexamic acid là một thuốc chống tiêu fibrin đã được chứng minh làm giảm tử vong ở mẹ trong các trường hợp chảy máu sau sinh và giảm chảy máu khi được sử dụng dự phòng tại thời điểm mổ lấy thai
- Chưa có thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên nào đánh giá việc sử dụng tranexamic acid trong điều trị PAS
- Chúng tôi tin rằng việc sử dụng 1g tranexamic acid sau khi kẹp dây rốn là hợp lý dựa trên dữ liệu hiện tại và nguy cơ chảy máu lớn trong PAS
- Nói chung, cắt tử cung toàn bộ được khuyến cáo vì chảy máu ở đoạn dưới tử cung hoặc cổ tử cung thường không cho phép cắt tử cung bán phần
- Trong mổ, việc sử dụng công nghệ thu hồi tế bào tự thân là một lựa chọn
- Công nghệ lọc hiện tại đã giảm thiểu những lo ngại lý thuyết về nguy cơ nhiễm máu thai nhi và các mảnh vụn khác
- Trong quá trình mổ lấy thai kèm cắt tử cung do PAS, điều cần thiết là theo dõi sát:
- Tình trạng thể tích
- Điện giải của mẹ
- Đặc biệt là kali
- Lượng nước tiểu
- Lượng máu mất liên tục
- Huyết động tổng thể
- Bệnh nhân nên được giữ ấm vì nhiều yếu tố đông máu hoạt động kém nếu nhiệt độ cơ thể dưới 36° C
- Trong trường hợp chảy máu với lượng máu mất từ 1500 cc trở lên, cần cho liều bổ sung kháng sinh dự phòng
- Các xét nghiệm ban đầu trong phòng mổ khi có chảy máu nên bao gồm:
- Hemoglobin
- Số lượng tiểu cầu
- Thời gian prothrombin
- Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa
- Fibrinogen
- Mặc dù kết quả xét nghiệm có thể hỗ trợ trong quản lý truyền máu, điều quan trọng là nhớ điều trị theo diễn biến lâm sàng chứ không phải theo kết quả xét nghiệm
- Nếu cần truyền máu hàng loạt, khuyến cáo truyền hồng cầu khối theo tỷ lệ 1:1 với huyết tương tươi đông lạnh
- Trong trường hợp bất ngờ nghi ngờ PAS trong mổ lấy thai dựa trên hình ảnh tử cung, cần thông báo cho các thành viên liên quan trong nhóm đa chuyên khoa trước khi tiến hành sinh, nếu tình trạng bệnh nhân ổn định
- Điều này nên bao gồm thông báo cho:
- Gây mê về khả năng cần gây mê toàn thân
- Thông báo ngân hàng máu và chuẩn bị chéo 4 đến 6 đơn vị hồng cầu khối
- Đảm bảo thêm đường truyền tĩnh mạch
- Thông báo chăm sóc tích cực
- Nhận hỗ trợ từ phẫu thuật viên chậu hông có kinh nghiệm khi cần
- Nếu nghi ngờ PAS xuất hiện trong ca mổ tại bệnh viện không có nguồn lực thích hợp để tối ưu hóa kết quả cho bệnh nhân, nên ổn định bệnh nhân và chuyển đến cơ sở chăm sóc chuyên khoa thích hợp
- Tương tự, nếu nghi ngờ PAS sau khi sinh thai qua mổ lấy thai do không bong rau, cần đóng nhanh tử cung và tiến hành cắt tử cung trong khi đồng thời huy động nhóm đa chuyên khoa
- Sau mổ lấy thai kèm cắt tử cung do PAS, cần theo dõi huyết động chặt chẽ trong giai đoạn hậu phẫu sớm
- Thường cần một thời gian theo dõi tại đơn vị chăm sóc tích cực vì bệnh nhân PAS có nguy cơ đáng kể:
- Chảy máu bụng-chậu tiếp diễn
- Quá tải dịch do hồi sức
- Tổn thương đa cơ quan tùy thuộc vào mức độ mất máu
- Nên có ngưỡng thấp để mổ lại nếu nghi ngờ chảy máu tiếp diễn trong giai đoạn hậu phẫu
- Khi có chảy máu không kiểm soát được và nghi ngờ đông máu rải rác trong lòng mạch, khuyến cáo đóng bụng bằng khăn xanh với gạc chèn ép và đóng da tạm thời bằng băng ép có dẫn lưu, sau đó đóng cân mạc và da vĩnh viễn sau 24 đến 48 giờ
- Trong trường hợp chảy máu ồ ạt, cũng nên đánh giá hội chứng Sheehan
- Bảo tồn tử cung thường được định nghĩa là lấy rau mà không cắt bỏ tử cung và xử trí theo dõi được định nghĩa là để rau tại chỗ một phần hoặc toàn bộ
- Hội Y học Bà mẹ Thai nhi khuyến cáo rằng việc bảo tồn tử cung hoặc xử trí theo dõi chỉ nên được xem xét trong những trường hợp hiếm gặp và nên dựa trên từng ca do bản chất đe dọa tính mạng của PAS vì chảy máu
- Trong những trường hợp PAS khu trú, việc bóc tách rau bằng tay hoặc cắt bỏ phẫu thuật phần rau bám dính và mô tử cung sau đó sửa chữa khuyết tật đã được thử nghiệm như một phương pháp bảo tồn
- Các nỗ lực điều trị bảo tồn nhằm mục đích giảm mất khả năng sinh sản trong tương lai, chảy máu và tổn thương các cơ quan vùng chậu khác có thể xảy ra trong quá trình cắt tử cung khi mổ lấy thai
- Khi xem xét điều trị bảo tồn, điều quan trọng cần lưu ý là không có thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên nào về các lựa chọn điều trị bảo tồn ở bệnh nhân PAS và điều trị bảo tồn không cho phép xác nhận chẩn đoán PAS
- Chúng ta không thể chắc chắn về chẩn đoán PAS và do đó hiệu quả của các lựa chọn điều trị bảo tồn
- Hơn nữa, quyết định chắc chắn trước phẫu thuật về việc tiến hành cắt tử cung khi mổ lấy thai đã được liên quan đến giảm lượng máu mất và giảm biến chứng
- Điều trị theo dõi PAS nên được xem là thử nghiệm vì dữ liệu chỉ giới hạn ở các báo cáo ca bệnh nhỏ
- Nói chung, dây rốn được buộc gần chỗ bám vào rau trước khi đóng tử cung
- Các báo cáo ca bệnh trước đây đã cho thấy tỷ lệ bảo tồn tử cung thành công từ 6% đến 78%
- Hầu hết các thất bại ban đầu và muộn trong điều trị bảo tồn là do tăng chảy máu cần phải cắt tử cung
- Nghiên cứu ca bệnh lớn nhất cho thấy tỷ lệ bệnh tật và tử vong nặng ở mẹ là 6% với hầu hết các trường hợp do nhiễm trùng trong nhóm cắt tử cung muộn
- Điều quan trọng cần biết là nguy cơ rau cài răng lược tái phát ở phụ nữ được điều trị bảo tồn thành công là cao từ 13,3% đến 28,6%
- Chúng tôi tin rằng điều trị bảo tồn đối với rau cài răng lược chỉ nên được thực hiện ở những bệnh nhân được lựa chọn kỹ với rau cài răng lược khu trú nhỏ sau khi tư vấn kỹ về các nguy cơ liên quan
- Cắt tử cung muộn theo khoảng thời gian ở bệnh nhân rau đâm xuyên với mục đích giảm mất máu và bệnh suất ở mẹ cũng đã được thử nghiệm với một số kết quả khả quan từ các báo cáo ca đơn lẻ từ một trung tâm
- Nghiên cứu ca bệnh lớn nhất bao gồm 13 bệnh nhân và cho thấy tỷ lệ truyền máu 46% và lượng máu mất trung bình là 1600 cc (900 cc tại thời điểm mổ lấy thai và 700 cc tại thời điểm cắt tử cung)
- Một lợi ích tiềm năng khác của cắt tử cung muộn là một số bệnh nhân trong loạt ca này đã có thể trải qua phẫu thuật cắt tử cung ít xâm lấn
- Tuy nhiên, do dữ liệu còn hạn chế, cắt tử cung muộn vẫn được xem là thử nghiệm tại thời điểm này và không được khuyến cáo thường quy
Theo dõi
Biến chứng
Các biến chứng của PAS (phổ rau cài răng lược) bao gồm:
- Tổn thương các cơ quan tại chỗ
- Chảy máu sau mổ
- Thuyên tắc ối
- Đông máu tiêu thụ
- Biến chứng liên quan đến truyền máu
- Hội chứng suy hô hấp cấp
- Thuyên tắc huyết khối sau mổ
- Các biến chứng nhiễm trùng
- Suy đa cơ quan
- Tử vong mẹ
- Trong số phụ nữ trải qua cắt tử cung khi mổ lấy thai, 84% sẽ cần truyền máu và 25% sẽ mất hơn 5 L máu
- Truyền máu là biến chứng thường gặp nhất liên quan đến PAS, tiếp theo là tổn thương bàng quang
- Tổn thương niệu quản, rò tiết niệu sinh dục, tổn thương ruột, huyết khối, nhiễm trùng sau mổ, sốc do mất máu và suy thận xảy ra ở dưới 2% bệnh nhân
- Mức độ bệnh suất ở mẹ liên quan đến PAS phụ thuộc vào độ sâu xâm lấn của rau thai
- Có 86% nguy cơ bệnh suất phức hợp ở mẹ ở bệnh nhân có rau đâm xuyên so với 27% ở bệnh nhân có rau cài răng lược
- Điều này có thể là do xâm lấn của rau thai vào các cấu trúc giải phẫu ngoài tử cung như mạch máu vùng chậu
- Rau đâm xuyên cũng có thể dẫn đến vỡ tử cung do xâm lấn qua vết sẹo mổ lấy thai trước đó, một biến cố có thể gây thảm họa cho bệnh nhân
- Thai chậm phát triển trong tử cung và sinh non thường gặp hơn ở thai kỳ có biến chứng PAS
Tiên lượng
- Tỷ lệ tử vong tổng thể do cắt tử cung khi mổ lấy thai là 1,6% nhưng có thể cao tới 10% ở bệnh nhân có rau đâm xuyên
- Kết cục sơ sinh dường như liên quan đến tuổi thai khi sinh hơn là độ sâu xâm lấn của rau thai
Lược đồ chẩn đoán và điều trị phổ rau cài răng lược (PAS)
Tài liệu tham khảo
- Jauniaux E, et al. Prevalence and main outcomes of placenta accreta spectrum: a systematic review and meta-analysis. Am J Obstet Gynecol 2019;221(3):208–18.
- Shellhaas CS, et al. The frequency and complication rates of hysterectomy accompanying cesarean delivery. Obstet Gynecol 2009;114(2 Pt 1):224–9.
- Publications Committee SfM-FM, Belfort MA. Placenta accreta. Am J Obstet Gynecol 2010;203(5):430–9.
- Hull AD, Resnik R. Placenta accreta and postpartum hemorrhage. Clin Obstet Gynecol 2010;53(1):228–36.
- Jauniaux E, et al. FIGO consensus guidelines on placenta accreta spectrum disorders: Epidemiology. Int J Gynaecol Obstet 2018;140(3):265–73.
- Gafvels ME, et al. Regulated expression of the trophoblast alpha 2-macroglobulin receptor/low density lipoprotein receptor-related protein. Differentiation and cAMP modulate protein and mRNA levels. J Biol Chem 1992;267(29):21230–4.
- Tantbirojn P, et al. Pathophysiology of placenta creta: the role of decidua and extravillous trophoblast. Placenta 2008;29(7):639–45.
- Wehrum MJ, et al. Accreta complicating complete placenta previa is characterized by reduced systemic levels of vascular endothelial growth factor and by epithelial-to-mesenchymal transition of the invasive trophoblast. Am J Obstet Gynecol 2011;204(5):411 e411.
- Silver RM, et al. Maternal morbidity associated with multiple repeat cesarean deliveries. Obstet Gynecol 2006;107(6):1226–32.
- Marshall NE, et al. Impact of multiple cesarean deliveries on maternal morbidity: a systematic review. Am J Obstet Gynecol 2011;205(3):262 e261–268.
- Pekar-Zlotin M, et al. Cesarean Scar Pregnancy and Morbidly Adherent Placenta: Different or Similar? Isr Med Assoc J 2017;19(3):168–71.
- Timor-Tritsch IE, et al. Cesarean scar pregnancy and early placenta accreta share common histology. Ultrasound Obstet Gynecol 2014;43(4):383–95.
- Timor-Tritsch IE, et al. Cesarean scar pregnancy is a precursor of morbidly adherent placenta. Ultrasound Obstet Gynecol 2014;44(3):346–53.
- Buca D, et al. Influence of prenatal diagnosis of abnormally invasive placenta on maternal outcome: systematic review and meta-analysis. Ultrasound Obstet Gynecol 2018;52(3):304–9.
- Bowman ZS, et al. Interobserver variability of sonography for prediction of placenta accreta. J Ultrasound Med 2014;33(12):2153–8.
- D’Antonio F, et al. Prenatal identification of invasive placentation using ultrasound: systematic review and meta-analysis. Ultrasound Obstet Gynecol 2013;42(5):509–17.
- Jauniaux E, et al. Placenta accreta spectrum: pathophysiology and evidence-based anatomy for prenatal ultrasound imaging. Am J Obstet Gynecol 2018;218(1):75–87.
- Eller AG, et al. Maternal morbidity in cases of placenta accreta managed by a multidisciplinary care team compared with standard obstetric care. Obstet Gynecol 2011;117(2 Pt 1):331–7.
- Shamshirsaz AA, et al. Maternal morbidity in patients with morbidly adherent placenta treated with and without a standardized multidisciplinary approach. Am J Obstet Gynecol 2015;212(2):218 e211–219.
- Warshak CR, et al. Effect of predelivery diagnosis in 99 consecutive cases of placenta accreta. Obstet Gynecol 2010;115(1):65–9.
- Abinader RR, et al. First-trimester ultrasound diagnostic features of placenta accreta spectrum in low-implantation pregnancies. Ultrasound Obstet Gynecol 2021.
- Ballas J, et al. Identifying sonographic markers for placenta accreta in the first trimester. J Ultrasound Med 2012;31(11):1835–41.
- Comstock CH, et al. The early sonographic appearance of placenta accreta. J Ultrasound Med 2003;22(1):19–23.
- Comstock CH, Bronsteen RA. The antenatal diagnosis of placenta accreta. BJOG 2014;121(2):171–81.
- Comstock CH, et al. Sonographic detection of placenta accreta in the second and third trimesters of pregnancy. Am J Obstet Gynecol 2004;190(4):1135–40.
- Wong HS, et al. Evaluation of sonographic diagnostic criteria for placenta accreta. J Clin Ultrasound 2008;36(9):551–9.
- Gielchinsky Y, et al. Perinatal outcome of pregnancies complicated by placenta accreta. Obstet Gynecol 2004;104(3):527–30.
- Hudon L, et al. Diagnosis and management of placenta percreta: a review. Obstet Gynecol Surv 1998;53(8):509–17.
- Cali G, et al. Morbidly adherent placenta: evaluation of ultrasound diagnostic criteria and differentiation of placenta accreta from percreta. Ultrasound Obstet Gynecol 2013;41(4):406–12.
- Warshak CR, et al. Accuracy of ultrasonography and magnetic resonance imaging in the diagnosis of placenta accreta. Obstet Gynecol 2006;108(3 Pt 1):573–81.
- Twickler DM, et al. Color flow mapping for myometrial invasion in women with a prior cesarean delivery. J Matern Fetal Med 2000;9(6):330–5.
- Wong HS, et al. Specific sonographic features of placenta accreta: tissue interface disruption on gray-scale imaging and evidence of vessels crossing interface- disruption sites on Doppler imaging. Ultrasound Obstet Gynecol 2007;29(2):239–40.
- Rac MW, et al. Ultrasound predictors of placental invasion: the Placenta Accreta Index. Am J Obstet Gynecol 2015;212(3):343 e341–347.
- Comstock CH. Antenatal diagnosis of placenta accreta: a review. Ultrasound Obstet Gynecol 2005;26(1):89–96.
- Chou MM, et al. Prenatal diagnosis of placenta previa accreta by transabdominal color Doppler ultrasound. Ultrasound Obstet Gynecol 2000;15(1):28–35.
- Shainker SA, et al. Special Report of the Society for Maternal-Fetal Medicine Placenta Accreta Spectrum Ultrasound Marker Task Force: Consensus on definition of markers and approach to the ultrasound examination in pregnancies at risk for placenta accreta spectrum. Am J Obstet Gynecol 2021;224(1):B2–14.
- Baughman WC, et al. Placenta accreta: spectrum of US and MR imaging findings. Radiographics 2008;28(7):1905–16.
- Dwyer BK, et al. Prenatal diagnosis of placenta accreta: sonography or magnetic resonance imaging? J Ultrasound Med 2008;27(9):1275–81.
- Einerson BD, et al. Magnetic resonance imaging is often misleading when used as an adjunct to ultrasound in the management of placenta accreta spectrum disorders. Am J Obstet Gynecol 2018;218(6):618e611–7.
- Maldjian C, et al. MRI appearance of placenta percreta and placenta accreta. Magn Reson Imaging 1999;17(7):965–71.
- Zelop C, et al. Placenta accreta/percreta/increta: a cause of elevated maternal serum alpha-fetoprotein. Obstet Gynecol 1992;80(4):693–4.
- Kupferminc MJ, et al. Placenta accreta is associated with elevated maternal serum alpha-fetoprotein. Obstet Gynecol 1993;82(2):266–9.
- Society of Gynecologic Oncology, et al. Placenta Accreta Spectrum. Am J Obstet Gynecol 2018;219(6):B2–16.
- Silver RM, et al. Center of excellence for placenta accreta. Am J Obstet Gynecol 2015;212(5):561–8.
- Esakoff TF, et al. Diagnosis and morbidity of placenta accreta. Ultrasound Obstet Gynecol 2011;37(3):324–7.
- Silver RM, Barbour KD. Placenta accreta spectrum: accreta, increta, and percreta. Obstet Gynecol Clin North Am 2015;42(2):381–402.
- Committee on Obstetric P. Committee Opinion No. 713: Antenatal Corticosteroid Therapy for Fetal Maturation. Obstet Gynecol 2017;130(2):e102–9.
- Lilker SJ, et al. Anesthetic considerations for placenta accreta. Int J Obstet Anesth 2011;20(4):288–92.
- Eller AG, et al. Optimal management strategies for placenta accreta. BJOG 2009;116(5):648–54.
- Bodner LJ, et al. Balloon-assisted occlusion of the internal iliac arteries in patients with placenta accreta/percreta. Cardiovasc Intervent Radiol 2006;29(3):354–61.
- Greenberg JI, et al. Prophylactic balloon occlusion of the internal iliac arteries to treat abnormal placentation: a cautionary case. Am J Obstet Gynecol 2007;197(5):470 e471–474.
- Collins SL, et al. Evidence-based guidelines for the management of abnormally invasive placenta: recommendations from the International Society for Abnormally Invasive Placenta. Am J Obstet Gynecol 2019; 220(6):511–26.
- Ballas J, et al. Preoperative intravascular balloon catheters and surgical outcomes in pregnancies complicated by placenta accreta: a management paradox. Am J Obstet Gynecol 2012;207(3):216 e211–215.
- Cali G, et al. Prophylactic use of intravascular balloon catheters in women with placenta accreta, increta and percreta. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol 2014;179:36–41.
- Shrivastava V, et al. Case-control comparison of cesarean hysterectomy with and without prophylactic placement of intravascular balloon catheters for placenta accreta. Am J Obstet Gynecol 2007;197(4):402 e401–405.
- D’Antonio F, et al. Role of interventional radiology in pregnancy complicated by placenta accreta spectrum disorder: systematic review and meta-analysis. Ultrasound Obstet Gynecol 2019;53(6):743–51.
- Collaborators WT. Effect of early tranexamic acid administration on mortality, hysterectomy, and other morbidities in women with post-partum haemorrhage (WOMAN): an international, randomised, double-blind, placebo-controlled trial. Lancet 2017;389(10084):2105–16.
- Simonazzi G, et al. Evidence on the use of tranexamic acid at cesarean delivery. Acta Obstet Gynecol Scand 2016;95(7):837.
- Clark SL, et al. Hypogastric artery ligation for obstetric hemorrhage. Obstet Gynecol 1985;66(3):353–6.
- Committee on Practice B-O. Practice Bulletin No. 183: Postpartum Hemorrhage. Obstet Gynecol 2017;130(4):e168–86.
- Bernstein HH, et al. The ability of the Haemonetics 4 Cell Saver System to remove tissue factor from blood contaminated with amniotic fluid. Anesth Analg 1997;85(4):831–3.
- Waters JH, et al. Amniotic fluid removal during cell salvage in the cesarean section patient. Anesthesiology 2000;92(6):1531–6.
- ACOG Practice Bulletin No. 120. Use of prophylactic antibiotics in labor and delivery. Obstet Gynecol 2011;117(6):1472–83.
- Fox KA, et al. Conservative management of morbidly adherent placenta: expert review. Am J Obstet Gynecol 2015;213(6):755–60.
- Palacios Jaraquemada JM, et al. Anterior placenta percreta: surgical approach, hemostasis and uterine repair. Acta Obstet Gynecol Scand 2004;83(8):738–44.
- Perez-Delboy A, Wright JD. Surgical management of placenta accreta: to leave or remove the placenta? BJOG 2014;121(2):163–9.
- Sentilhes L, et al. Maternal outcome after conservative treatment of placenta accreta. Obstet Gynecol 2010;115(3):526–34.
- Agostini A, et al. Value of laparoscopic assistance for vaginal hysterectomy with prophylactic bilateral oophorectomy. Am J Obstet Gynecol 2006;194(2):351–4.
- Kayem G, et al. Conservative versus extirpative management in cases of placenta accreta. Obstet Gynecol 2004;104(3):531–6.
- Eshkoli T, et al. Placenta accreta: risk factors, perinatal outcomes, and consequences for subsequent births. Am J Obstet Gynecol 2013;208(3):219 e211–217.
- Sentilhes L, et al. Fertility and pregnancy outcomes following conservative treatment for placenta accreta. Hum Reprod 2010;25(11):2803–10.
- Kabiri D, et al. Outcomes of subsequent pregnancies after conservative treatment for placenta accreta. Int J Gynaecol Obstet 2014;127(2):206–10.
- Lee PS, et al. Multidisciplinary approach to manage antenatally suspected placenta percreta: updated algorithm and patient outcomes. Gynecol Oncol Res Pract 2017;4:11.
- Clausen C, et al. Management of placenta percreta: a review of published cases. Acta Obstet Gynecol Scand 2014;93(2):138–43.
- Miller DA, et al. Clinical risk factors for placenta previaplacenta accreta. Am J Obstet Gynecol 1997;177(1):210–4.
- Morlando M, et al. Maternal and neonatal outcomes in planned versus emergency cesarean delivery for placenta accreta spectrum: A multinational database study. Acta Obstet Gynecol Scand 2021;100(Suppl 1):41–9.
- Marcellin L, et al. Placenta percreta is associated with more frequent severe maternal morbidity than placenta accreta. Am J Obstet Gynecol 2018;219(2):193 e191.
- Seet EL, et al. Placenta accreta: depth of invasion and neonatal outcomes. J Matern Fetal Neonatal Med 2012;25(10):2042–5.
BẢNG CHÚ GIẢI MỘT SỐ THUẬT NGỮ Y HỌC LIÊN QUAN
STT | Thuật ngữ (Anh) | Phiên âm (IPA) | Nghĩa (Việt) |
1 | Accreta | /əˈkriːtə/ | Cài răng lược (rau thai) |
2 | Ablation | /əˈbleɪʃən/ | Phá hủy, đốt |
3 | Amniocentesis | /ˌæmniəʊsɛnˈtiːsɪs/ | Chọc ối |
4 | Anesthesia | /ˌænəsˈθiːziə/ | Gây mê/tê |
5 | Antepartum | /ˌæntəˈpɑːtəm/ | Trước sinh |
6 | Biopsy | /ˈbaɪɒpsi/ | Sinh thiết |
7 | Bradycardia | /ˌbrædɪˈkɑːdiə/ | Nhịp tim chậm |
8 | Blood transfusion | /blʌd trænsˈfjuːʒən/ | Truyền máu |
9 | Cesarean section | /sɪˈzeəriən ˈsekʃən/ | Mổ lấy thai |
10 | Coagulopathy | /koʊˌæɡjʊˈlɒpəθi/ | Rối loạn đông máu |
11 | Dyspnea | /dɪspˈniːə/ | Khó thở |
12 | Dissection | /daɪˈsekʃən/ | Phẫu tích |
13 | Decidua | /dɪˈsɪdjuə/ | Màng rụng |
14 | Embolism | /ˈembəlɪzəm/ | Thuyên tắc |
15 | Endometrium | /ˌendəˈmiːtriəm/ | Nội mạc tử cung |
16 | Epistaxis | /ɛpɪˈstæksɪs/ | Chảy máu cam |
17 | Fibroid | /ˈfaɪbrɔɪd/ | U xơ |
18 | Fistula | /ˈfɪstjʊlə/ | Rò |
19 | Fundus | /ˈfʌndəs/ | Đáy (tử cung) |
20 | Gravida | /ˈɡrævɪdə/ | Số lần có thai |
21 | Gynecology | /ˌɡaɪnəˈkɒlədʒi/ | Phụ khoa |
22 | Hematoma | /ˌhiːməˈtəʊmə/ | Khối máu tụ |
23 | Hemorrhage | /ˈhemərɪdʒ/ | Xuất huyết |
24 | Hysterectomy | /ˌhɪstəˈrektəmi/ | Cắt tử cung |
25 | Increta | /ɪnˈkriːtə/ | Xâm lấn (rau thai) |
26 | Induction | /ɪnˈdʌkʃən/ | Khởi phát chuyển dạ |
27 | Laceration | /ˌlæsəˈreɪʃən/ | Rách, vết rách |
28 | Laparoscopy | /ˌlæpəˈrɒskəpi/ | Nội soi ổ bụng |
29 | Mastitis | /mæsˈtaɪtɪs/ | Viêm vú |
30 | Meconium | /mɪˈkəʊniəm/ | Phân su |
31 | Multipara | /ˌmʌltɪˈpærə/ | Đa sinh |
32 | Myometrium | /ˌmaɪəˈmiːtriəm/ | Cơ tử cung |
33 | Neonate | /ˈniːəneɪt/ | Trẻ sơ sinh |
34 | Nullipara | /ˌnʌlɪˈpærə/ | Chưa sinh con |
35 | Obstetrics | /əbˈstetrɪks/ | Sản khoa |
36 | Oligohydramnios | /ˌɒlɪɡoʊhaɪˈdræmniəs/ | Thiểu ối |
37 | Percreta | /pəˈkriːtə/ | Rau đâm xuyên |
38 | Placenta | /pləˈsentə/ | Rau thai |
39 | Polyhydramnios | /ˌpɒlihʌɪˈdræmniəs/ | Đa ối |
40 | Postpartum | /pəʊstˈpɑːtəm/ | Sau sinh |
41 | Preeclampsia | /ˌpriːɪˈklæmpsiə/ | Tiền sản giật |
42 | Primigravida | /ˌpraɪmɪˈɡrævɪdə/ | Thai lần đầu |
43 | Prolapse | /prəʊˈlæps/ | Sa |
44 | Puerperium | /ˌpjuːəˈpɪəriəm/ | Thời kỳ hậu sản |
45 | Rupture | /ˈrʌptʃə/ | Vỡ, rách |
46 | Serosa | /sɪˈrəʊsə/ | Thanh mạc |
47 | Stillbirth | /ˈstɪlbɜːθ/ | Thai chết lưu |
48 | Syncope | /ˈsɪŋkəpi/ | Ngất |
49 | Tachycardia | /ˌtækɪˈkɑːdiə/ | Nhịp tim nhanh |
50 | Thrombosis | /θrɒmˈbəʊsɪs/ | Huyết khối |
51 | Ultrasound | /ˈʌltrəsaʊnd/ | Siêu âm |
52 | Uterus | /ˈjuːtərəs/ | Tử cung |
53 | Vagina | /vəˈdʒaɪnə/ | Âm đạo |
54 | Vasa previa | /ˈveɪsə ˈpriːviə/ | Mạch máu tiền đạo |
55 | Vertex | /ˈvɜːteks/ | Đỉnh đầu |
56 | Viability | /ˌvaɪəˈbɪləti/ | Khả năng sống |
57 | Vulva | /ˈvʌlvə/ | Âm hộ |
58 | Weekling | /ˈwiːklɪŋ/ | Thai yếu |
59 | Xiphoid | /ˈzɪfɔɪd/ | Mũi ức |
60 | Zygote | /ˈzaɪɡəʊt/ | Hợp tử |
61 | Amnion | /ˈæmniən/ | Màng ối |
62 | Areola | /əˈriːələ/ | Quầng vú |
63 | Cervix | /ˈsɜːvɪks/ | Cổ tử cung |
64 | Cholestasis | /kəʊˈlestəsɪs/ | Ứ mật |
65 | Chorion | /ˈkɔːriən/ | Màng đệm |
66 | Colostrum | /kəˈlɒstrəm/ | Sữa non |
67 | Cord prolapse | /kɔːd ˈprəʊlæps/ | Sa dây rốn |
68 | Cyanosis | /ˌsaɪəˈnəʊsɪs/ | Tím tái |
69 | Dystocia | /dɪsˈtəʊʃə/ | Khó sinh |
70 | Eclampsia | /ɪˈklæmpsiə/ | Sản giật |
71 | Episiotomy | /ɪˌpiːziˈɒtəmi/ | Cắt tầng sinh môn |
72 | Forceps | /ˈfɔːseps/ | Kẹp (forceps) |
73 | Gestation | /dʒeˈsteɪʃən/ | Thai kỳ |
74 | Hyperemesis | /ˌhaɪpərˈemɪsɪs/ | Ốm nghén nặng |
75 | Implantation | /ˌɪmplænˈteɪʃən/ | Làm tổ |
76 | Involution | /ˌɪnvəˈluːʃən/ | Thoái triển |
77 | Lactation | /lækˈteɪʃən/ | Tiết sữa |
78 | Membrane | /ˈmembreɪn/ | Màng |
79 | Morbidity | /mɔːˈbɪdəti/ | Bệnh suất |
80 | Mortality | /mɔːˈtæləti/ | Tử suất |
81 | Nuchal cord | /ˈnjuːkəl kɔːd/ | Dây rốn quấn cổ |
82 | Parturition | /ˌpɑːtjʊˈrɪʃən/ | Sinh nở |
83 | Perineum | /ˌperɪˈniːəm/ | Tầng sinh môn |
84 | Placenta previa | /pləˈsentə ˈpriːviə/ | Rau tiền đạo |
85 | Prenatal | /priːˈneɪtl/ | Tiền sản |
86 | Presentation | /ˌprezənˈteɪʃən/ | Ngôi thai |
87 | Pyelonephritis | /ˌpaɪələʊnɪˈfraɪtɪs/ | Viêm thận bể thận |
88 | Quickening | /ˈkwɪkənɪŋ/ | Thai máy |
89 | Sonogram | /ˈsɒnəʊɡræm/ | Hình siêu âm |
90 | Trimester | /traɪˈmestə/ | Tam cá nguyệt |
91 | Twin | /twɪn/ | Song thai |
92 | Umbilical | /ʌmˈbɪlɪkəl/ | Thuộc rốn |
93 | Vacuum extraction | /ˈvækjuəm ɪkˈstrækʃən/ | Giác hút |
94 | Viable | /ˈvaɪəbl/ | Có khả năng sống |
95 | Vernix | /ˈvɜːnɪks/ | Ghét thai |
96 | Wharton’s jelly | /ˈwɔːtənz ˈdʒeli/ | Thạch Wharton |
97 | Yolk sac | /jəʊk sæk/ | Túi noãn hoàng |
98 | Zygosity | /zaɪˈɡɒsəti/ | Kiểu hợp tử |
99 | Zona pellucida | /ˈzəʊnə pəˈluːsɪdə/ | Màng trong suốt |
100 | Breech | /briːtʃ/ | Ngôi mông |
BÌNH LUẬN