SƠ LƯỢC VỀ PHÔI THAI VÀ GIẢI PHẪU BỘ MÁY TIẾT NIỆU
Phôi thai và giải phẫu học bộ máy tiết niệu đóng một vai trò quan trọng trong chẩn đoán
các bất thường bẩm sinh cũng như bệnh lý bộ máy tiết niệu.
Phôi thai
Bộ phận tạo thành thận trong tương lai là hậu thận tức là phần thấp nhất của một cấu trúc bao gồm tiền thận ở trên cao, trung thận ở giữa và hậu thận ở thấp nhất ( hình 1).
Trong quá trình phát triển chỉ có hậu thận tiếp tục phát triển nằm tương ứng ở vị trí ngang eo trên (S1, S2) còn tiền thận và trung thận teo đi. Mầm niệu quản xuất phát từ xoang niệu sinh dục đi lên và cắm vào mặt trước hậu thận.
Thận chính thức được hình thành từ tuần thứ 6 và bắt đầu thay đổi vị trí bằng cách xoay và đi lên đồng thời diễn ra cho đến khi có vị trí như bình thường trong hố thận ở người lớn. Lúc này rốn thận nằm ở mặt trước trong.
Khi có một bất thường trong quá trình xoay và đi lên này bao gồm sự thay đổi không hoàn toàn hay quá mức sẽ dẫn đến những bất thường về vị trí cao, thấp, hay bất thường quay hoặc phối hợp cả hai…
Ống niệu rốn (ouraque) bắt đầu từ góc trước trên bàng quang tới rốn. Bình thường sau khi trẻ chào đời ống này teo lại thành dải xơ gọi là dây chằng rốn bàng quang.
Bất thường của bộ máy sinh dục hay phối hợp với bất thường bộ máy tiết niệu liên quan mật thiết đến quá trình hình thành và phát triển tuyến sinh dục.
Giải phẫu
Thận ( hình 2)
Thận nằm sau phúc mạc trong hố thắt lưng, thận trái hơi cao hơn thận phải. Xương sườn 12 nằm chếch ở sau, bắt chéo khoảng vị trí giữa 1/3 trên và 1/3 giữa thận. Vị trí này có thể thay đổi khi thở, thận có thể lên cao hay xuống thấp tới 3 cm. Sự thay đổi này được ứng dụng khá nhiều trong kỹ thuật thăm dò và chẩn đoán.
Trục thận chếch xuống dưới ra ngoài và ra trước. ở lớp cắt ngang: rốn thận hướng ra trước và vào trong khoảng 40° đến 50° so với mặt phẳng trán.
Hình dáng thận thay đổi tùy theo lớp cắt, với các lớp cắt ngang từ trên xuống dưới: Cực trên thận có hình tròn, dần dần xuống có hình ô van rồi ngang qua rốn thận có hình giống móng ngựa mở vào phía trong và ra trước, khi dần xuống cực dưới hình dáng thận giống như ở cực trên.
Bao thận ( capsule) dính vào nhu mô thận tiếp đến là tổ chức mỡ quanh thận (khó thấy bao thận và tổ chức mỡ này ở người gầy) tiếp đến là mạc thận (bao xơ thận – bao Gérota) ngoài bao này là tổ chức mỡ cạnh thận ( bao gồm cả tổ chức mỡ sau phúc mạc, rốn thận). Các cấu trúc giải phẫu này rất quan trọng trong đánh giá xâm lấn của tổn thương nhất là ung thư.
Bờ thận thường rất nhẵn, đều. Thông thường thận múi bào thai sẽ không tồn tại ở tuổi trưởng thành. Bên trái đôi khi thấy thận hình bướu lạc đà do lách đè.
Kích thước thận: ở người lớn thận dài từ 9,5 đến 12 cm, dầy 3-4 cm, rộng 5-7 cm. Kích thước thận còn phụ thuộc vào tình trạng bài tiết, nó có thể to lên khi đang bài niệu mạnh, giảm đi khi có tuổi. Khi tồn tại thận đôi, chiều dài thận thường lớn hơn bình thường. Thận trái thường lớn hơn thận phải nhưng không vượt quá 2 cm. Khi có một thận teo hoặc giảm chức năng, thận bên đối diện thường lớn hơn kích thước bình thường do hoạt động bù. Hai thận có cấu trúc như nhau.
Hình 2. Sơ đồ cắt dọc thận và ngang qua rốn thận
a. Cột Bertin, b. Tháp thận, c. Xoang thận,d. Gai thận,e. Động mạch cung
1. Đoạn II tá tràng, 2. Tĩnh mạch thận phải, 3. Đầu tuỵ, 4. Tĩnh mạch mạc treo tràng trên, 5. Tĩnh mạch chủ dưới, 6. Động mạch mạc treo tràng trên, 7. Đoạn 4 tá tràng, 8. Tĩnh mạch thận trái, 9. Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới, 10. Bể thận trái, 11. Thận trái, 12. Động
mạch thận phải, 13. Cơ đái chậu, 14. Cột hoành, 15. Dây thần kinh giao cảm, 16. Động mạch chủ, 17. ống ngực, 18. Động mạch thận trái.
Xoang thận có hình ô van giới hạn rõ với vùng nhu mô thận và hơi lồi lõm do các cột Bertin lấn vào. Đôi khi còn thấy xoang thận bị chia đôi ngăn cách bởi một dải nhu mô thận (trong trường hợp thận đôi).
Cắt ngang qua vùng giữa thận ta nhìn rõ lưỡi trước, lưỡi sau thận.
Nên tìm hiểu hình thái các đài thận và niệu quản bằng chụp UIVsau CLVT.
Bể thận tiếp theo các đài lớn, có thể nằm trong xoang hay ngoài xoang thận. Hình dạng và kích thước thay đổi tuỳ người.
Niệu quản
Niệu quản nằm ở khoang sau phúc mạc, trước cơ đái chậu, thường khó nhìn thấy khi không giãn. Niệu quản phải bắt chéo trước động tĩnh mạch chậu ngoài, niệu quản trái bắt chéo trước thân động tĩnh mạch chậu chạy dọc theo thành tiểu khung rồi chui vào thành sau trong bàng quang đổ vào bàng quang. Lỗ đổ vào bàng quang của niệu quản thường tạo thành gờ hơi lồi lên ở góc trên tam giác bàng quang. Khi có luồng nước tiểu phụt vào bàng quang là thời điểm tốt nhất để xem lỗ niệu quản bàng quang ( méat).
Khoang sau phúc mạc:
Theo Meyers người ta chia khoang sau phúc mạc ra làm ba khu vực:
Khoang cạnh thận phía trước: giới hạn phía trước bởi phúc mạc.
Khoang quanh thận giới hạn bởi bao xơ quanh thận – mạc thận (Bao Gérota).
Khoang cạnh thận phía sau: Trên cao là cơ hoành, phía dưới là các thành phần của thành bụng sau (cơ đái chậu, cơ vuông thắt lưng). Khoang này mở xuống dưới vào tiểu khung.
Sự phân chia này giúp ta định khu các bệnh lý bất thường nhất là các xâm lấn do ung thư, khu trú dịch (máu, mủ, dịch, túi nước tiểu…) ở từng khu vực.
Các khoang sau phúc mạc này chỉ chứa tổ chức mỡ, tổ chức liên kết, mạch máu, hạch bạch huyết, dây thần kinh.
Mạch máu và thần kinh:
Động mạch, tĩnh mạch chủ bụng liên quan mật thiết với thận qua trung gian cuống mạch thận và các thành phần phụ thuộc. Các động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ ngangmức L1 hoặc L2 trong khoảng 95 % các trường hợp. Có khoảng 25 % các trường hợp có nhiều động mạch thận.
Động mạch thận phải chạy ngang sang phải giữa cột sống và sau tĩnh mạch chủ tạo thành một ấn lõm vào tĩnh mạch chủ.
Động mạch thận trái nằm trong khoang mỡ quanh thận, phía sau tuỵ và hệ thống mạch lách. Đường kính động mạch thận từ 4-6 mm.
Đôi khi tồn tại nhánh tuần hoàn phụ, cấp máu cho các cực trên thận ( động mạch cực).
Tĩnh mạch thận:
Tĩnh mạch thận phải ngắn chạy hơi chếch lên cao và vào trong( khó phát hiện khi có huyết khối…).
Tĩnh mạch thận trái dài hơn nằm trong khoang mặt trước động mạch chủ ( dễ xem), và mặt sau động mạch mạc treo tràng trên (kìm động mạch chủ – động mạch mạc treo).
Một số các mạch khác ở khu vực sau phúc mạc cũng có thể thấy khi giãn hoặc bệnh lý như trong huyết khối tĩnh mạch chủ, tĩnh mạch thận, tĩnh mạch thượng thận, tĩnh mạch vỏ thận, tĩnh mạch tinh hay buồng trứng (tĩnh mạch tinh hoặc buồng trứng trái đổ vào tĩnh mạch thận trái).
Các hạch bạch huyết.
Bình thường hầu như không nhìn thấy bất kỳ một hạch bạch huyết nào ở khoang mỡ sau phúc mạc vì vậy bất cứ một hạch bạch huyết nào dù to hay nhỏ đều phải coi là bất thường và theo dõi một cách tổng thể.
Cơ đái chậu nằm ở mặt trước bên cột sống, có hình tam giác, chiều dầy của nó tăng dần từ trên xuống dưới và có giới hạn rõ với thận nhất là khi bệnh nhân hít thở. Cơ vuông thắt lưng thấy ở ngoài cơ đái chậu.
Tuyến thượng thận thường nằm rất sâu trong khoang sau phúc mạc, liên quan mật thiết với mặt trước của cực trên thận, thường có hình tháp, dấu phẩy, hay hình chữ Y. Ung thư cực trên thận hay xâm lấn tuyến thượng thận.
Qua cơ hoành, cực trên của thận còn liên quan mật thiết với các túi cùng màng phổi.
Về phía trước thận, tuỵ là cơ quan liên tiếp với khoang trước cạnh thận vì vậy một nang giả tuỵ có thể tiếp xúc trực tiếp với mặt trước thận và đè đẩy thận.
Phía bên phải đầu tuỵ liên quan trực tiếp với mặt trước tĩnh mạch chủ qua đó liên quan với mặt trước thận. Một khối u thận hay hạch lớn có thể phát triển ra trước và đè đẩy tuỵ.
Bên trái đuôi tuỵ liên quan với mặt trước thận trái và các mạch máu lách. Phần thân và đuôi tuỵ liên quan khá mật thiết với cuống thận trái.
Trong khoang sau phúc mạc thận liên quan:
Bên phải: liên quan với gan qua khoang gan thận, (khoang Morison).
Đoạn II tá tràng (trong ổ bụng) chạy ngay trước cuống thận phải, góc đại tràng phải nằm ngay dưới thuỳ phải gan và che một phần cực trên thận.
Bên trái: Thận liên quan chặt chẽ với lách, bình thường lách phủ một phần trên, ngoài thận. Khi lách to có thể toàn bộ mặt bên thận tiếp giáp với lách.
Bàng quang ( hình 3)
Bàng quang là một tạng ngoài phúc mạc, nằm trong chậu hông bé, trên cơ nâng hậu môn, sau xương mu, trước các tạng sinh dục (túi tinh của nam hoặc tử cung của nữ) và trực tràng. Bàng quang gồm các mặt trên, dưới sau (đáy), đỉnh
1. Bàng quang.
2. Douglas.
3. Dây chằng mu BQ.
4. Túi tinh.
5. Cân Denonvilliers.
6. Tiền liệt tuyến.
7. Lá trước TLT.
8. Dây chằng ngang.
9. Cơ thắt vân.
10. Nhân xơ trung tâm tầng sinh môn.
11. Thân tử cung.
12. Âm đạo
Hình 3. Sơ đồ bàng quang nam và nữ
Mặt trên:
Nam giới: Có phúc mạc phủ mặt sau thành bụng, lật lên phủ mặt trước bàng quang, rồi vòng xuống giữa bàng quang, túi tinh (túi cùng bàng quang- sinh dục), rồi lật lên phủ mặt trước trực tràng (túi cùng sinh dục – trực tràng). Ngoài ra nó còn liên quan đến ruột non, đại tràng xích ma.
Nữ giới: Có phúc mạc phủ mặt trên bàng quang, lật lên phủ mặt trước dưới tử cung (túi
cùng bàng quang tử cung). Tới đáy tử cung lật lên phủ mặt trước trực tràng (tạo thành
túi cùng trực tràng – sinh dục). Như vậy, mặt trên bàng quang liên quan mặt bàng quang
của tử cung, ngoài ra cũng liên quan với ruột non và đại tràng xích ma giống như ở nam giới.
Mặt dưới sau hay đáy bàng quang, chếch xuống dưới ra trước:
Nam giới: Phần trên của mặt sau liên quan đến túi tinh, ống đẫn tinh, tiền liệt tuyến, các quai ruột và trực tràng.
Nữ giới: Phúc mạc không lách xuống mặt sau, bàng quang liên quan với cổ tử cung, âm đạo, các quai ruột và trực tràng.
Hình thể trong:
Bàng quang có dung tích trung bình khoảng 250-350 ml, bàng quang của nữ to hơn bàng quang của nam. Khi đầy nước tiểu, mặt trong phẳng, khi bàng quang ít nước tiểu, mặt trong có nếp. Hai lỗ niệu quản và lỗ niệu đạo là ba góc của tam giác bàng quang. ở phía dưới hai lỗ niệu quản, bàng quang chũng xuống thành một đáy.
Cấu tạo: Thành bàng quang dầy khoảng 3 -4 mm khi đầy nước tiểu bao gồm bốn lớp:
Lớp thanh mạc.
Lớp dưới thanh mạc.
Lớp cơ.
Lớp dưới niêm mạc – niêm mạc.
Bên ngoài là tổ chức mỡ lỏng lẻo hay bị xâm lấn nhất là trong ung thư.
Về hệ thống hạch bạch huyết:
Mạng lưới bạch huyết dưới niêm mạc, trong cơ thành bàng quang, dưới thanh mạc tập trung đổ vào hai nhóm hạch:
Nhóm bịt hay còn gọi nhóm trong của chuỗi hạch chậu ngoài và nhóm giữa thu nhận mạng lưới bạch huyết của mặt trước bàng quang.
Mạng lưới bạch huyết của mặt sau tập trung vào nhóm hạch chậu ngoài, các hạch cạnh bó mạch sinh dục – hạ vị, hạch vùng vị trí chia đôi động mạch chậu.
Tất cả bạch huyết tập trung vào hệ thống hạch dọc cạnh động mạch chủ.
Các u ác tính của bàng quang hay xâm lấn tiền liệt tuyến, túi tinh, cổ tử cung, khoang mỡ trong tiểu khung.
CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH THẬN
Kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính thận
Bệnh nhân nhịn ăn, không dùng các thuốc cản quang trước 3 ngày…
Làm siêu âm và chụp hệ tiết niệu trước nhằm định hướng cắt cho phù hợp.
Chuẩn bị thuốc cản quang (thông thường hiện nay hay dùng Telebrix 350, Cenetic 300 Iopamiron…) các thuốc men và trang bị cấp cứu cần thiết (Corticoid, trợ tim mạch, huyết thanh, oxy, bơm và kim tiêm các loại).
Tư thế bệnh nhân nằm ngửa tay duối lên phía đầu, chân vào trước để dễ thực hiện tiêm thuốc cản quang.
Dùng thuốc cản quang đường uống tạo đối quang ống tiêu hoá, dễ tìm các xâm lấn và hạch trong ổ bụng.
Các lớp cắt được thực hiện trước và sau khi tiêm thuốc cản quang.
Tiêm thuốc cản quang tốt nhất là tiêm nhanh nhằm đánh giá các gốc mạch và tưới máu ở thận và u, liều dùng từ 300 – 400 mg I /kg cân nặng cơ thể.
Để tìm huyết khối tĩnh mạch thận, tĩnh mạch chủ, ngoài nơi tiêm thông thường là M tĩnh mạch nếp khuỷu, có thể tiêm thêm ở hai tĩnh mạch mu chân cùng lúc để tránh hình giả tạo do hiệu ứng dòng chảy ở vùng hai tĩnh mạch thận đổ vào tĩnh mạch chủ.
Độ dầy lớp cắt được chọn thường là 5- 10 mm, ít nhất cũng bằng 1/2 kích thước u ( ví dụ u 1 cm nên chọn độ dầy lớp cắt 5 mm). Cắt các lớp liên tiếp nhau. Bắt đầu chụp thì sớm vào giây thứ 30-60 tính từ khi tiêm. Có thể chụp ở thì muộn để đánh giá các đài bể thận và niệu quản đoạn cao.
Để có hình ảnh đẹp nên chọn hướng cắt cho phù hợp tuỳ theo vị trí u ( cắt từ trên xuống hay từ dưới lên). Với các máy hiện đại cắt nhanh thì điều này không cần đặt ra.
Chọn cửa sổ in phim thích hợp (để đánh giá tổn thương nhất là xâm lấn tổ chức mỡ).
Trong một số trường hợp dùng chụp xoắn ốc sẽ cho hình ảnh đẹp hơn. Các u đặc ác tính của thận lúc nào cũng ngấm thuốc ở thì sớm vỏ thận.
Nên làm UIV ngay sau CLVT tốt hơn là làm UIV trước khi chụp CLVT ( tiết kiệm và tránh dùng nhiều lần thuốc cản quang cho người bệnh).
Ung thư thận trên bệnh lý thận đa nang hiếm gặp và rất khó phát hiện kể cả chụp cắt lớp vi tính, nên kết hợp sinh thiết có hướng dẫn. Sinh thiết dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính rất quan trọng và ngày càng được áp dụng nhiều và có kết quả khả quan.
HỘI CHỨNG U THẬN
Hội chứng u thận rất phức tạp bao gồm các u lành tính, u ác tính, các giả u ( u nang, u viêm…Một số các bất thường thận, bệnh lý tuyến thượng thượng thận, các u sau phúc mạc, đôi khi cả các bệnh lý ống tiêu hoá, tuỵ, lách, gan… cũng có biểu hiện như hội chứng u thận. Chẩn đoán xác định nguồn gốc u gặp nhiều khó khăn. Chụp cắt lớp vi tính là một trong những kỹ thuật thông dụng rất có giá trị trong chẩn đoán hội chứng u
thận.
Hội chứng u do nang thận (hình 4)
Bệnh lý nang thận bao gồm các nang thận đơn thuần, thận đa nang hay nang thận
trong bệnh đa nang.
Hình 4. Hình ảnh siêu âm nang thận phải,
UIV và CLVT nang đơn thuần thận trái với vỏ mỏng và hình gai nhu mô thận. Nang thận thường được phát hiện ngẫu nhiên do không có triệu chứng lâm sàng.
Các nang đơn thuần thường có giới hạn rõ hay phát triển ra ngoài bờ thận, có hình gai
hồng (hình nhu mô thận tiếp giáp với nang), thành mỏng không vôi hoá, không nhìn thấy
thành nang. Trên siêu âm thấy dịch trong nang trong. Trên CLVT dịch không ngấm
thuốc cản quang sau khi tiêm, thường có tỷ trọng dịch gần giống nước. Khi có đủ các
dấu hiệu trên không cần phải tìm kiếm các chẩn đoán khác nữa. Các nang thành dầy có
vách, có nụ sùi ở thành nang và có tỷ trọng >20 HU cần theo dõi. Các nang dạng hoại
tử thành dầy bờ không đều ngấm thuốc cản quang cần lưu ý là ung thư hoại tử hay
ung thư dạng nang ngoài ra có thể có những đặc điểm khác nữa cần phân biệt theo
bảng phân koại nang của M. A Bosniak:
Bảng phân loại nang thận theo Bosniak.M. A (1986).
Type I : Nang thận đơn thuần Type IIa : Nang có váchType IIb : Nang thận chảy máu
Type IIIa : Nang thận có thành dầy vôi hoá, nụ sùi
Type IIIb : Nang thận có thành, nhiều vách dầy
Type IV : Các ung thư nang hoá, hay ung thư hoại tử
Các u thận đặc
Các u lành tính
Các u mạch – cơ – mỡ ( AML) (hình 5)
Các u này xuất phát từ trung bì, lành tính, u có 3 thành phần đặc trưng: mạch, cơ,
mỡ.
Các u này hay gặp ở bệnh nhân có xơ cứng củ (bệnh Bourneville). Thường có nhiều
u ở cả hai bên, đôi khi u rất lớn và hay có biến chứng chảy máu trong u ( 80%).
Vấn đề chẩn đoán phân biệt với ung thư thận cũng nên đặt ra.
Khi chưa tiêm thuốc cản quang thấy u lớn, có dấu hiệu điển hình là chứa tỷ trọng mỡ ( tỷ trọng (-) và tỷ trọng phần mềm vào khoảng 40 – 90 HU), với dấu hiệu này ta có thể khẳng định là u mạch – cơ – mỡ.
Sau khi tiêm: thuốc ngấm đa dạng tuỳ thuộc vào thành phần mạch của u có thể thành đám, vệt, hay ngoằn nghoèo.
Khối u có thể nhiều ở cả hai bên.
Kích thước khối u có thể rất lớn tới 20 cm vấn đề chẩn đoán phân biệt với liposarcome, hoặc leiomyosarcome, đôi khi khó nhưng các u này thường là sau phúc mạc và đè đẩy vào thận trong khi các AML là u của thận.
Các biến chứng thường thấy của AML là vỡ gây chảy máu trong u, tụ máu dưới bao, hoặc quanh thận.
Hình 5. ảnh CLVT u mạch cơ mỡ thận phải trước và sau khi tiêm thuốc cản quang
U tế bào lớn ( oncocytome )
U lành tính, thườg không có dấu hiệu lâm sàng đôi khi có gặp đái máu, đau lưng. U hầu
như không có tính xâm lấn, không tái phát khi phẫu thuật.
CLVT là chỉ định thích hợp, trước khi tiêm thuốc cản quang thường thấy hình khối tròn
hay bầu dục 3- 5 cm đôi khi rất lớn, giới hạn rõ có vỏ bọc.Khối có tỷ trọng đồng nhất trừ
vòng trung tâm có hình sao tương ứng với tổ chức xơ sẹo hoá, các vôi hoá có thể gặp
nhưng hiếm.
Sau khi tiêm thuốc cản quang khối ngấm thuốc theo dạng hình sao điển hình từ trung
tâm ra ngoại biên, vùng trung tâm luôn giảm đậm hơn lân cận nhưng không có hoại tử,
không có ổ chảy máu. Đôi khi có hình ảnh khó phân biệt với ung thư thận.
U có tiết rénine
U cạnh cầu thận tiết ra rénine thường thấy ở người trẻ có cao huyết áp, rénine cao trong máu, giảm kali huyết. Chẩn đoán sinh học không đặc hiệu lắm. Khi loại trừ cao HA do nguyên nhân động mạch thận hẹp thì nên tìm u này. Khi phẫu thuật huyết áp sẽ trở
lại bình thưòng ngay.
Trước khi tiêm thuốc cản quang có thể thấy biến đổi bờ thận, các u thường đồng tỷ trọng với nhu mô thận.
Sau khi tiêm thuốc thấy nốt thường tròn, nhỏ ít khi quá 10 mm, giới hạn rõ trong nhu mô, giảm đậm so với mô thận lành.
Trên thế giới tỷ lệ mắc ung thư thận vào khoảng 1-2 % các ung thư. Tỷ lệ nam / nữ vào
khoảng 1,5-2,1. Lớp tuổi thường gặp nhất là trên 60. ở trẻ em, các ung thư thận
(Néphroblastomes) chiếm khoảng 4 %- 6% các ung thư. Thường gặp ở lớp tuổi từ 5-7 (
75%). Thời gian sống của ung thư thận sau 5 năm vào khoảng 40 %.
Tại Việt nam ung thư thận chiếm khoảng 1-3% các ung thư, tỷ lệ nam/ nữ vào khoảng
3/1.
Chỉ định, phương pháp phẫu thuật phụ thuộc vào mức độ, sự lan rộng của tổn thương,
di căn hạch, huyết khối tĩnh mạch, di căn xa…Trong vấn đề này thì vai trò của chẩn đoán
hình ảnh nhất là chụp CLVT, ngày càng quan trọng và có tính quyết định.
Đại cương về lâm sàng của ung thư thận
Có thể chia thành 3 nhóm chính:
Các dấu hiệu đặc trưng thuộc bộ máy tiết niệu
Đái máu đại thể, toàn bãi, không có dấu hiệu đau. Hiếm khi thấy đái máu vi thể. ở
nước ta tỷ lệ đái máu gặp tới 80 % các ung thư thận.
Đau lưng, thắt lưng.Tỷ lệ gặp từ 28,6% đến 40 %
Dấu hiệu sờ thấy u
Sự phối hợp 3 dấu hiệu trên gọi là tam chứng cổ điển của ung thư thận.
Các dấu hiệu ngoài bộ máy tiết niệu
Sốt kéo dài không rõ nguyên nhân, ra mồ hôi trộm, cao huyết áp, sút cân, suy nhược,
chán ăn, rối loạn tiêu hoá, phù chi dưới, tuần hoàn bàng hệ, tăng huyết áp, đái protêin,
nhất là khi có giãn tĩnh mạch tinh, tốc độ máu lắng tăng. Có nhiều trường hợp ung thư
thận được tìm thấy tình cờ do di căn. Di căn phổi thậm chí hạch rốn phổi, di căn xương
gây gãy xương bệnh lý là hay gặp nhất và tiến triển rất nhanh, ít khi thấy di căn da, não…
Các dạng phát hiện được do khám định kỳ.
Thông thường hay phát hiện được khi bệnh nhân đi kiểm tra siêu âm vì lý do khác như
tiền liệt tuyến, u xơ tử cung, hay chụp phổi.
Giải phẫu bệnh
Có tới 85 – 90% các ung thư thận là các ung thư biểu mô (carcinomes). Các u lành chỉ
có khoảng 5%. Các u dạng tổ chức liên kết, sacôm rất hiếm gặp.
Các ung thư biểu mô (carcinomes)
Các umg thư biểu mô còn có nhiều tên gọi khác: u thận quá phát (hypernéphrome), U
Grawitz, u hậu thận (métanéphrome), u thận ác tính (néphrome malin), u biểu mô tuyến
(adénocarcinome). Loại u này hiếm gặp ở tuổi thiếu niên.
Hình ảnh hay gặp nhất là sự tăng sinh tế bào lớn sáng màu với hình thái đa dạng.
Tế bào sáng: các tế bào lớn chứa nhiều bào tương có màu sáng, trong tế bào có nhiều
lipit, glycogen, nhân tế bào nhỏ, nằm ở vị trí trung tâm, ít có nhân chia. Quá trình tăng
sinh thành từng mảng tế bào cùng một ít tổ chức đệm, giàu mạch máu tân tạo.
U biểu mô đường bài xuất ( urothélial )
Loại này ít gặp, hay xâm lấn bể thận, có thể có u thứ hai ở phần thấp. Về giải phẫu bệnh
được xếp riêng không nằm trong bảng ung thư thận do có nguồn gốc mô học khác nhau.
U tế bào lớn (oncocytome)
Hiếm khi chẩn đoán được trước mổ, u thường lớn, có khi tới 20 cm, trung bình 7,5 cm.
U tế bào lớn rất khó chẩn đoán phân biệt với ung thư biểu mô, thường là rất muộn mới
chẩn đoán được. Tuy nhiên mức độ ác tính còn đang bàn cãi, có tác giả coi là lành có tác
giả coi là ác tính.
U nguyên bào thận ở người lớn: hiếm
U tổ chức liên kết thận
Chiếm khoảng từ 1-5% các u thận, thường là u lành, u ác tính tổ chức liên kết thận chiếm
khoảng 1% các ung thư thận.
U mạch – cơ – mỡ thận
U lành, hiếm, thường không thấy có triệu chứng dù kích thước lớn được coi như là một loạn sản phôi ( hamartome). U có cấu trúc mỡ, mạch, cơ trơn, gặp ở mọi lứa tuổi, nữ nhiều hơn nam, đôi khi hay kèm bệnh xơ cứng củ.
U cơ trơn
Các u cơ trơn, leiomyosacôm, u mỡ (lipome), liposacôm, hay fibrosacôm rất hiếm gặp.
U lymphôm thận
Hiếm, thường là thứ phát khi bệnh ở giai đoạn muộn.
Ung thư bao xơ thận
Rất hiếm, hầu như chỉ chẩn đoán được sau mổ và giải phãu bệnh.
Di căn thận
Di căn đến thận thường theo đường máu
Phân loại
Phân loại ung thư thận dựa vào đặc điểm của tế bào và mức độ xâm nhập của u. Hiện
nay người ta thường dựa vào phân loại của Robson, Skinner và tổ chức y tế thế giới.
Phân loại của Robson và Skinner (1969)
Giai đoạn I: U trong nhu mô thận chưa phá vỡ vỏ thận.
Giai đoạn II: Xâm lấn tổ chức mỡ quanh thận hay rốn thận.
Giai đoạn III:
III A Huyết khối tĩnh mạch thận hay tĩnh mạch chủ
III B Có một hạch di căn rốn thận hay chuỗi hạch dọc động mạch chủ
III C Huyết khối và hạch lan rộng
Giai đoạn IV:
IV A: Xâm lấn khu vực
IV B : Có di căn xa
Các u ác tính khác
Các u thần kinh da ( T. neuro-ectodermiques)
Các u dạng cacxinoit ( carcinoide)
Các ung thư biểu mô tế bào nhỏ
Các sacôm
Lymphôm
Các u thận trẻ em ở người lớn ( Wilms)
Các di căn từ nơi khác đến.
Các u lành tính: U mạch – cơ – mỡ, u hạch , u mỡ, u xơ…
Di căn của ung thư thận
Tại chỗ u có thẻ xâm lấn bao thận, tổ chức mỡ quanh thận, xâm lấn vào tổ chức cơ quan
lân cận. U hay có xâm lấn, di căn vào vùng rốn thận.
Mạch máu tại chỗ: u xâm lấn mạch máu thấy trong khoảng 50% các ca phẫu thuật chủ yếu là ở tĩnh mạch trong thận, tĩnh mạch thận, rồi tĩnh mạch chủ. Tổn thương mạch máu
liên quan chặt chẽ với kích thước u. Người ta thấy có huyết khối trong khoảng 10% đối
với các u dưới 5 cm, 60% với các u trên 7 cm.
Theo đường máu di căn của ung thư thận có thể tới phổi, gan, xương (dưới dạng ổ tiêu
xương), thận bên đối diện… hiếm khi thấy di căn não, tuyến giáp.
Hình ảnh CLVT ung thư thận
Trước khi tiêm thuốc cản quang:
Biến đổi bờ thận, các khối u lớn các dấu hiệu này càng rõ do có xu hướng phát triển ra ngoài bờ thận. Các khối u nhỏ,các u phát triển về hướng đài bể thận ít gây ra dấu hiệu này nhưng gây đè ép, đè đẩy các đài bể thận.
Hình khối có giới hạn khó phân biệt giới hạn với mô thận lành.
Thường hay phá vỡ vỏ thận.
Khối phát triển ra ngoài bờ thận thường được bao bọc bởi tổ chức mỡ quanh thận hay rốn thận.
Khối có cấu trúc không đồng nhất do có các ổ hoại tử.
Chảy máu trong khối.
Vôi hoá trong khối thấy từ 5-10% các ung thư thận.
Các dấu hiệu trên càng hay gặp ở các u lớn.
Sau khi tiêm thuốc cản quang:
Sau khi tiêm nhanh với liều đủ lớn khối có biểu hiện ngấm thuốc mạnh nhưng thường không đều thì sớm (giàu tưới máu) nhất là vùng ngoại vi của u, trung tâm ít đậm hơn nhu
mô thận lân cận, có những vùng giảm đậm do hoại tử (sự ngấm thuốc chên lệch trên 10
HU mới có giá trị chẩn đoán) (hình 6).
Hình 6. ảnh siêu âm, UIV, CLVT trước và sau tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch u cực
dưới thận trái.
Việc đánh giá tỷ trọng sau khi tiêm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: liều thuốc cản
quang, tốc độ tiêm, thời gian chụp sau khi tiêm, độ dầy lớp cắt, bước nhảy lớp cắt…
Khối u dạng giả nang hay nang ung thư hoá có thành vách dầy bờ không đều, nụ sùi,
ngấm thuốc cản quang mạnh (hình 8).
Kích thước khối u có giá trị chẩn đoán, tiên lượng ( trên 3 cm, dưới 3 cm, dưới 1,5
cm).
Các u nhỏ dưới 3 cm trước đây được coi như là u lành ( 90%) nhưng ngày nay nhờ
tiến bộ của siêu âm, chụp cắt lớp vi tính với độ tin cậy cao ngày càng nhiều các ung thư
thận kích thước nhỏ đựoc phát hiện nên quan điểm này cần được thay đổi. Chính vì vậy
vấn đề thăm dò cần lưu ý khi có bệnh cảnh lâm sàng (đái máu…). Với các u nhỏ dưới 1,5
cm khả năng tiến triển thành ác tính có tỷ lệ thấp nhưng cần phải theo dõi chặt chẽ. Nếu
u tăng kích thước nhanh, chụp cắt lớp vi tính có hình ảnh nghi ngờ cũng nên điều trị
phẫu thuật.
Ngoài các dấu hiệu nêu trên còn có thể thấy:
Huyết khối tĩnh mạch thận, tĩnh mạch chủ
Xâm lấn các cơ quan lân cận, hạch, tuyến thượng thận.
U có thể vỡ chảy máu gây máu tụ quanh thận (hình 7).
Dấu hiệu xâm lấn khu vực
Chụp cắt lớp vi tính tìm các xâm lấn của ung thư thận có thể đạt độ chính xác từ tới 90%
(67 % với tổ chức quanh thận, 78% với xâm lấn tĩnh mạch, 83% với xâm lấn hạch). Nếu
kết hợp với siêu âm độ chính xác tăng thêm (nhất là đánh giá huyết khối lòng mạch).
Khoang mỡ quanh thận( giai đoạn IIa)
Các xâm lấn tổ chức mỡ biểu hiện bằng các dải hay nốt tăng tỷ trọng trong lớp mỡ
quanh thận so với tổ chức mỡ bình thường, dấu hiệu này càng rõ ở người béo. Bao xơ
thận khi bị thâm nhiễm cũng bị dầy lên.
Xâm lấn tĩnh mạch (giai đoạn III a)(hình 9)
Xâm lấn tĩnh mạch thận biểu hiện bởi hình khuyết giảm đậm đồng nhất hay không đồng
nhất trong lòng mạch. Huyết khối tĩnh mạch thận phải nhiều khi khó xem do tĩnh mạch
chạy hơi chếch không cùng nằm trên một lớp cắt. Huyết khối ở bên trái đôi khi cũng khó
xem, nhất là khi có bất thường nhiều tĩnh mạch thận trái. Xâm lấn tĩnh mạch chủ cũng có
dấu hiệu tương tự như tĩnh mạch thận nhưng thường nhìn dễ hơn nhất là khi thấy thuốc
cản quang bao quanh huyết khối, dấu hiệu này cần lưu ý hiệu ứng của dòng chảy ở thì
sớm khi các tĩnh mạch chi dưới chưa ngấm thuốc cản quang. Huyết khối có thể gặp trong
khoảng 5-10 %. Huyết khối lớn có thể làm biến dạng, tăng kích thước tĩnh mạch chủ.
Huyết khối thường có tỷ trọng giống mô mềm và cũng ngấm thuốc cản quang khi nó bị tổ
chức hoá.
Xâm lấn hạch ( giai đoạn III b)( hình 10-. CLVT hạch rốn thận trái do u thận trái)
Thông thường thấy hạch vùng rốn thận và dọc theo động mạch chủ. Di căn hạch rốn thận
thường sớm. Kích thước hạch trên 1 cm cần phải nghi ngờ, trên 2 cm thường chắc chắn
là hạch di căn. Không có một dấu hiệu nào đặc trưng cho hạch viêm hay hạch di căn. Tuy
nhiên cũng có tác giả cho rằng những hạch viêm thường có hình o van giống như hạch
bình thường còn hạch ác tính thường tròn.
Với các di căn xa ( giai đoạn IV)( hình 11)
Với các cơ quan lân cận : tuyến thượng thận, lách, đại tràng, đuôi tuỵ, gan… phát hiện tố
nhất là chụp CLVT tuy nhiên đôi khó đánh giá ngay cả khi xâm lấn làm mất khoang mỡ
giữa hai cơ quan. Các di căn gan đánh giá bằng siêu âm rất dễ ràng. Xâm lấn dạ dày,
ruột ít gặp và chẩn đoán rất khó khăn.
Di căn ở phổi thường được đánh giá bằng chụp phổi thông thường nhưng chụp cắt lớp vi
tính ưu việt hơn vì ngoài các tổn thương ở phổi còn đánh giá được di căn hạch trung thất
nhất là khi đã phát hiện nhiều hạch ổ bụng thì nên chụp cắt lớp phổi( hình 12).
Các u ác tính khác ở thận
Các di căn từ xa đến thận thường theo đường máu nhiều ổ có thể ở một hay cả hai thận.
Các Lymphôm ở thận có thể biểu hiện bằng nốt đơn độc, nhiều nốt với kích thước đa
dạng, hoặc thâm nhiễm toàn bộ thận làm thận to đồng đều, thận có thể bị bao bọc bởi
một lymphome sau phúc mạc. Tất cả các tổn thương lymphôm thường giảm đậm.
Hình 11. CLVT u thận xâm lấn đại tràng, đuôi tuỵ, thành bụng
Hình 12. Chụp phổi thường quy và CLVT di căn phổi của u thận
Chẩn đoán phân biệt
Ung thư biểu mô đường bài xuất ( urothelial)hình 13,14)
Các ung thư biểu mô đường bài xuất thường ở vùng đài, bể thận, phát triển xâm lấn vào lòng đường bài xuất, hay gây bít tắc ứ nước thận. Có thể gặp u thứ 2 cùng bản chất ở đoạn thấp đường bài xuất. Trong trường hợp u to xâm lấn nhu mô thận
nhiều, rất khó phân biết với ung thư nhu mô vỏ thận.
Hình13. Siêu âm và UIV của u bể thận trái
Siêu âm có thể thấy khối phát triển vào lòng bể thận, UIV thấy hình ảnh khuyết lòng
đường bài xuất với đường bờ nham nhở không đều. CLVT thấy khối thuộc khu vực đài
bể thận, ngấm thuốc cản quang thường ít hơn ung thư thận.
Hình 14. ảnh siêu âm, CLVT u bể thận phải- vị trí nối
Ung thư tổ chức liên kết
Với siêu âm và UIV các ung thư tổ chức liên kết (sarcomes), leiomyosacôm, liposacôm
rất khó phân biệt với ung thư nhu mô vỏ thận. CLVT cũng chỉ cho các dấu hiệu gợi ý do
tính chất ngấm thuốc cản quang kém của u.
Các u di căn ở thận
Rất khó chẩn đoán, thường biểu hiện nhiều ổ nhỏ giảm âm trên siêu âm, giảm đậm và ít
ngấm thuốc cản quang trên CLVT. UIV hầu như không chẩn đoán được. Vấn đề đặt ra là
cần tìm u nguyên phát hoặc đã biết trước một u nguyên phát thì chẩn đoán dễ dàng hơn.
Các u tuyến
Thông thường các u tuyến nhất là các u có kích thước nhỏ thường là u lành. Các u này
không có biểu hiện lâm sàng, hầu như phát triển chủ yếu trong thận không vượt quá bao
thận. Hay gặp nhất là phì đại cột Bertin. Phát hiện chủ yếu là tình cờ khi thăm dò. Trên
siêu âm thấy khối thường nhỏ dưới 3 cm, cấu trúc âm đồng nhất,tương tự như nhu mô
vỏ thận. Trên UIV thấy khối nằm giữa các đài hay nhóm đài nhưng không thấy dấu hiệu
chèn ép đè đẩy đài thận. Trên chụp cắt lớp vi tính thấy khối có giới hạn rõ, chủ yếu là phì
đại cột Bertin. Khi tiêm thuốc cản quang khối có thể ngấm thuốc mạnh (lésions
tubulaires) hoặc ít ngấm thuốc (lésions papillaires) nhưng nhanh chóng trở về giống mô
thận bình thường. Đối với các u nhỏ dưới 1,5 cm vấn đề chẩn đoán phân biệt rất khó mà
nên theo dõi quá trình tăng kích thước, sự ngấm thuốc cản quang bất thường, nếu nghi
ngờ sẽ can thiệp.
U mạch – cơ – mỡ
Các U tế bào lớn (oncocytome)
Các viêm thận bể thận cấp khu trú, áp xe thận(hình 15)
Các áp xe thận giai đoạn đầu đôi khi khó do cấu trúc vùng viêm nhiễm to lên và còn
ngấm thuốc. Khi áp xe đã hình thành việc chẩn đoán phân biệt dễ do có hình ảnh đặc
trưng với hình ổ mủ có thành dầy không đều. Lâm sàng của áp xe thận thường rầm rộ
với các dấu hiệu nhiễm trùng khá nặng. Trên siêu âm cũng cho hình ảnh khá rõ với hình
ổ mủ, thành dầy không đều. Khi đặt đầu dò vào vùng thận bệnh nhân rất đau.
Hình 15. CLVT áp xe thận trước và sau khi tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch
Các nang thận phức tạp (acquired renal cystic disease – ARCD)- xem phần phân loại
nang.
U Wilms
U Wilms – u nguyên bào thận. Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 7 tuổi ( chủ yếu 3-4 tuổi). U có
cấu trúc dạng nhiều thuỳ múi, sần sùi, với các tế bào trung sản mạc, hay có chảy máu ở
giai đoạn đầu.
Phân loại
Loại I -U phát triển trong thận
Loại II -Có một phần phát triển ra ngoài thận nhưng còn có thể bóc tách được
Loại III -Không thể bóc tách được phần ngoài thận
Loại IV -Di căn phổi,gan,hạch ( ít di căn xương )
Loại V -U phát triển cả hai bên.
CT Scanner
Khối lớn tỷ trọng giảm, không đồng nhất, ngấm thuốc cản quang không đồng đều ở thì
đầu. Nếu phát hiện muộn u Wilms có đầy đủ dấu hiệu như ung thư thận ở người lớn.
Chụp mạch.
Hình mạch bệnh lý, tuần hoàn bàng hệ, đè đẩy nhiều các mạch thận.
Chẩn đoán phân biệt
U nguyên bào thần kinh, thận đa nang, loạn sản thận dạng nang.
Hội chứng nhiễm trùng
Viêm thận bể thận cấp
Chủ yếu lâm sàng xác định viêm thận bể thận cấp (thường do vi khuẩn Gram (-) bằng 3 dấu hiệu cơ bản:
Hội chứng nhiễm trùng nặng
Đau hố thận
Đái mủ
Đôi khi không gặp đau hố thắt lưng, các dấu hiệu rất mơ hồ, nhất là ở bệnh nhân có đái
tháo đường.
Chụp CLVT ít dùng, nếu có thường chụp các lớp cắt 10 mm liên tiếp nhau trước và sau
khi tiêm thuốc cản quang.
Các lớp cắt trước khi tiêm thuốc cản quang cho thấy có hai tình huống xảy ra chứng tổ có viêm thận bể thận:
Thấy sẹo vùng vỏ, teo nhu mô thận chứng tỏ trong tiền sử đã bị viêm nhiễm.
Có thể phát hiện tổn thương mới kèm theo sỏi trong các đài bể thận.
Các lớp cắt sau khi tiêm là lớp cắt cơ bản để chẩn đoán vì có thể các lớp cắt trước
tiêm không phát hiện thấy dấu hiệu gì đặc biệt.Ta có thể thấy một thận to lên phù nề
không có dấu hiệu giảm đậm điển hình. Chụp chậm 6-8 giờ sau khi tiêm có thể thấy
ngấm thuốc cản quang đậm quanh vùng tổn thương nhưng không đồng nhất.
Viêm thận cấp do vi khuẩn
Chụp CLVT ít dùng.
Trước tiêm thuốc ít thấy dấu hiệu điển hình.
Sau khi tiêm thuốc cản quang thấy hình ảnh giảm đậm không đều dạng hình tam giác
theo thuỳ thận, đỉnh vào phía trong, các thương tổn này có thể thấy ở một vài hay
nhiều thuỳ thận. Thận cũng to ra do kèm theo phản ứng viêm phù nề. Tuy vậy hình ảnh
này cũng không đặc hiệu cho viêm thận cấp.
Áp xe thận (hình 15,16)
CLVT là chỉ định tốt nhất trong chẩn đoán và theo dõi điều trị áp xe thận, có thể dẫn lưu
dưới hướng dẫn của CLVT. Các áp xe thận thường do hậu quả của viêm thận – bể thận
cấp tiến triển hoặc ngẫu nhiên do đường máu. Các dấu hiệu có thể thấy:
Thường áp xe một ổ tuy nhiên cũng có thể nhiều ổ.
Thận to lên khu trú tại ổ áp xe, hình ổ dịch không trong (đậm tỷ trọng) thành dầy không đều, ngấm thuốc cản quang mạnh ở bờ.
Có thể ổ áp xe vỡ gây ổ áp xe quanh thận, thông với ổ áp xe thận, viêm nhiễm quanh thận.
Có dấu hiệu lâm sàng nhiễm trùng.
Cần lưu ý áp xe thận hay gặp ở bệnh nhân đái đường, suy giảm miễn dịch (HIV).
Thận ứ mủ ( hình 17)
Các bít tắc do sỏi lâu ngày thường dẫn đến viêm thận bể thận, viêm mủ bể thận, thận câm. Chụp CLVT thấy nhu mô thận mỏng đi, nước tiểu có mủ lắng đọng, có thể thâm nhiễm ra ngoài gây viêm mủ quanh thận.
Lao tiết niệu (hình 18,19)
Lao bộ máy tiết niệu chiếm khoảng 25% các lao ngoài phổi. Rất ít khi dùng CLVT để
chẩn đoán. Tổn thương lao ở mô vỏ thận rất hiếm mà chủ yếu ở vùng các tháp
thận.Các ổ lao thường có bờ nhâm nhở dúm dó thông với đài thận. Các vôi hoá rất hay
gặp trong lao đôi khi vôi hoá toàn bộ một thận (thận hoá đá) làm mất hoàn toàn cấu trúc
mô thận thay vào đó là cấu trúc với nhiều nốt vôi hoá nhỏ khắp mọi nơi của thận. Tổn
thương ở đường bài xuất chủ yếu gây chít hẹp đài, bể thận, niệu quản, bàng quang
bé… Rất hay gặp lao hệ tiết niệu kèm lao sinh dục (tinh hoàn).
Chấn thương thận (hình 20,21)
Hiện nay chụp CLVT là phương pháp chẩn đoán tốt nhất trong chấn thương thận, ta có thể xác định từng tổn thương:
Mảnh vỡ thận – Đường vỡ thận
Tổn thương mạch máu cuống thận
Chức năng thận
Tổn thương máu tụ quanh thận
Hình 20. Hình ảnh siêu âm máu tụ dưới bao thận, vỡ thận trái trên CLVT trước và sau tiêm thuốc cản quang
Túi nước tiểu hình ổ dịch nước tiểu hay tập trung ở phần thấp rốn thận, có thể thông với đường bài xuất hoặc không.
Các tổn thương cơ quan khác kèm theo
Phân loại chấn thương thận ( hình 21b)
Theo Chatelain:
Loại I:
Hình 21a. CLVT vỡ thận làm ba mảnh và hình túi nước tiểu
Thường gặp nhất trong chấn thương thận ( 85%): Đụng dập nhu mô thận (ổ đụng dập)
có thể có kèm tụ máu dưới bao thận, hình dáng thận hầu như không thay đổi, bao thận
cònnguyên vẹn. Thường ổ đụng dập không thông với đường bài xuất hoặc có thông
không đáng kể gây đái máu mức độ nhẹ. Loại này thường không cần điều trị phẫu thuật
và phục hồi gần nguyên vẹn.
Loại II :
Đụng dập với đường vỡ sâu thông với đường bài xuất, rách bao thận, đái máu, thoát
thuốc ra ngoài hệ thống đường bài xuất. Có kèm máu tụ quanh thận, tuy nhiêm mức độ
ít nên các phần thận vỡ ít bị tách xa nhau, không làm biến đổi nhiều kích thước thận.
Loại này nên theo dõi nếu nặng lên nên phẫu thuật.
Loại III:
Vỡ thận nhiều mảnh, máu tụ nhiều giữa các mảnh vỡ xa nhau, máu tụ quanh thận, máu
tụ trong bể thận, nước tiểu tràn ra vào ổ vỡ và quanh thận, hình dáng kích thước thận
biến đổi to lên, mất đường bờ viền…Loại này nên mổ sớm.
Loại IV:
Tổn thương cuống thận (thường tổn thương động mạch thận 60-80%) hoặc đụng dập
hoàn toàn thận làm mất cấu trúc hình dáng thận. Máu tụ nhiều quanh thận, sau phúc
mạc…
Tổn thương mạch thận thường gây dập nát gây tắc mạch giống như kẹp nát mạch,
mạch chỉ còn vỏ xơ áo ngoài.
Theo hiệp hội OISCAAST Mỹ (organ Injury Scaling Committe of American Association
for Surgery of Trauma):
Loại I: Tổn thương không nguy hiểm, bao thận còn nguyên vẹn, có ổ đụng dập thận, có
thể có máu tụ dưới bao hoặc không, không có đái máu hoặc có thể chỉ có đái máu vi
thể.
Loại II: Rách, đứt bao thận, máu tụ sau phúc mạc, có các ổ hay vùng đụng dập nông
không ăn sâu vào vùng tuỷ thận.
Loại III: Đường, ổ vỡ làm rách, đứt bao thận, qua tuỷ thận thông với đường bài xuất
(đài, bể thận), đái máu.
Loại IV: Vỡ thận kèm tổn thương các nhánh động hay tĩnh mạch ở rốn thận
Loại V: Vỡ thận thành nhiều mảnh, rách các cấu trúc rốn thận.
Hình 21 b. Hình minh hoạ phân loại các mức độ vỡ thận
Di chứng của chấn thương thận
Các di chứng thường thấy là:
Tụ dịch nước tiểu hay gặp ở vùng thấp của rốn thận.
Các áp xe hoá sau chấn thương
Phình mạch, thông động tĩnh mạch sau chấn thương…
CLVT chẩn đoán một số bất thường bẩm sinh của thận và đường bài xuất
Các bất thường bẩm sinh của thận và đường bài xuất rất đa dạng, chụp CLVT là một
phương pháp chẩn đoán tốt nhưng ít được dùng do giá thành cao. Chụp CLVT chẩn
đoán tốt các bất thường về số lượng, vị trí của thận ( thận sa, lạc chỗ), thận dính nhau,
các bệnh lý trên thận bất thường (hình 22,23,24,25,26 27)
Hình 26: Hình ảnh thận móng ngựa dính nhau bằng nhu mô
Hình 27. Siêu âm hẹp vị trí nối bể thận- niệu quản trái và UIV, CLVT hẹp vị trí nối bể
thận niệu quản phải
CLVT trong thăm dò Thận ghép
Tai biến phẫu thuật
Các tụ dịch quanh thận cạnh thận phát hiện tốt nhất nhờ CLVT. Tuy nhiên cần biết phân
biệt một lớp dịch mỏng sau mổ ở giai đoạn đầu (bình thường) với tụ dịch do thải trừ
thận ghép (mức độ nhiều kèm biến đổi thận ghép).
Các túi bạch huyết: rất hay gặp sau ghép khoảng 3 tuần đôi khi muộn hơn, thường
có kích thước lớn, vô mạch, giảm đậm, đồng nhất, có vách, hay khu trú ở dưới cực
dưới thận ghép.
Túi nước tiểu: do rò nước tiểu có nhiều nguyên nhân, do miệng nối niệu quản bàng
quang không tốt, hoại tử niệu quản, rò do khâu bàng quang. Khi chụp chưa tiêm
thuốc nó có hình giống túi bạch huyết. Sau khi tiêm chụp chậm có thể thấy nguyên
nhân rò, hoặc nếu cần chụp thận bể thận ghép qua da cung thấy được nguyên nhân
rò.
Các ổ áp xe hoá do tụ dịch lâu ngày sẽ có hình ảnh ổ dịch không trong với vỏ dày
ngấm thuốc cản quang kèm theo viêm dầy các tổ chức lân cận.
Máu tụ
Hình ảnh ổ dịch tăng đậm tỷ trọng giống máu khi máu tan dần thấy có hình giống ổ dịch trong…
Các biến chứng nội khoa
Các nhiễm trùng (giống thận bình thường)
Rối loạn tưới máu: CLVT có thể tìm được các huyết khối động- tĩnh mạch gây rối loạn tưới máu nhất là các máu cắt thời gian nhanh, xoắn ốc.
Thận ghép không hoạt động : Nên dùng cộng hưởng từ chẩn đoán.
Chụp CLVT thận sau mổ.
Hố thận
Thăm dò tình trạng hố thận sau mổ là một chỉ định quan trọng của CLVT. Thông thường các quai ruột chiếm chỗ ở hố thận. Nếu có bất thường như tổ chức tái phát của ung thư, ổ dịch tồn dư, hạch thì CLVT phát hiện tốt nhất( hình 28).
Biến chứng sau mổ
Các máu tụ trong hố thận, tụ nước tiểu, ổ áp xe trong hố thận có thể xảy ra sau cắt thận
bán phần.
Máu tụ : dấu hiệu tuỳ thuộc vào từng thời kỳ nếu mới sau mổ có thể thấy ổ máu tụ với tỷ trong cao đần dần sẽ dịch hoá có tỷ trọng thấp.
áp xe hố thận: có thể phối hợp có cả áp xe trong nhu mô thận, thường dịch không trong không đồng nhất, có tỷ trọng dịch khá cao vỏ có thể ngấm thuốc cản quang. Tổ chức mỡ xung quanh bao bọc ổ dịch, vỏ xơ dầy lên.
Hình 28. U thận trái tái phát sau mổ
Tụ nước tiểu:
Túi dịch có tỷ trọng thấp giống nước tiểu thành túi mỏng, tổ chức xơ xung quanh dầy lên vỏ ít ngấm thuốc cản quang. Cần lưu ý túi nước tiểu có thể áp xe hoá tạo hình ảnh vỏ túi dầy lên, dịch trong túi không trong lắng đọng dạng mủ.
Rò động tĩnh mạch sau mổ, thấy khi có đái máu sau mổ.
Thiếu máu do nhồi máu thấy hình ổ nhồi máu giảm tỷ trọng dạng hình tam giác đỉnh
vào phía trung tâm. Sau khi tiêm chỉ thấy thuốc viền xung quanh do các động mạch vỏ
thận cung cấp. Sau mổ có thể thấy các vùng thiếu máu kèm theo máu tụ dưới bao…
CLVT là một trong những kỹ thuất tối ưu trong thăm dò thận nhất là u thận có kết hợp
với siêu âm và chụp UIVsau cắt lớp. Ngoài vai trò phát hiện ung thư thận nó còn góp
phần quan trọng trong đánh giá phân loại, chỉ định phương pháp điều trị thích hợp.
CHỤP CẮT LỚP ĐƯỜNG BÀI XUẤT
Các chỉ định CLVT với các bệnh lý của hệ thống đường bài xuất trước đây ít được sử dụng. Thông thường chỉ được chỉ định khi các phương pháp chẩn đoán khác thất bại ( siêu âm, UIV, UPR …).
U đường bài xuất hệ tiết niệu đoạn cao
Bệnh hiếm gặp (1-2ca/100 000 dân). Tỷ lệ nữ/nam khoảng 1/3-4. Thường gặp ở lứa tuổi trên 60. Chủ yếu gặp loại u tế bào biểu mô đường tiết niệu ( T. urothéliale).(Xem hình ảnh ở phần u bể thận).
Giải phẫu bệnh
Người ta chia ra làm hai loại: u nguyên phát và u di căn ( 2%).
U nguyên phát có thể có nguồn gốc tế bào biểu mô (đa số) hoặc không.
U biểu mô
U biểu mô nhú: chiếm khoảng 80 % các ca, hiếm khi có một u biểu mô nhú lành tính.
Phân loại u đường bài xuất hệ tiết niệu đoạn cao theo Batata, Cummings, Droller( Mỹ)
năm 1986.
Độ | Bể thận | Độ | Niệu quản |
1 | Bề mặt niêm mạc | O | Bề mặt niêm mạc |
2 |
Dưới niêm mạc,xâm lấn màng đáy |
A | Dưới niêm mạc, xâm lấn màng đáy |
3 | Xâm lấn lớp cơ, nhu mô thận,chưa xâm lấn bao thận |
B
C |
Xâm lấn lớp cơ
Xâm lấn bao xơ(ngoại |
4 | Xâm lấn bao thận và bao xơ thận, tổ chức mỡ quanh thận, di căn |
D | Xâm lấn tổ chức lân cận, di căn |
Các u biểu mô không có dạng nhú
Hiếm gặp, có thể là Các carcinomes épidermoide. U các tế bào biểu mô Malpighi, các u
tuyến tiết nhầy…
Các u không có dạng biểu mô( hiếm).
Các u thứ phát từ xa đến (hiếm)
Các polypes.
Các di căn:
Di căn trực tiếp:
Các di căn của loại ung thư này khá phức tạp, di căn trực tiếp theo đường bài xuất rất thường gặp (điều trị phẫu thuật phải triệt để VD: U bể thận phải lấy hết cả niệu quản đến sát bàng quang).
Di căn khu vực:
Các ung thư ở vùng đài thận rất nhanh xâm lấn nhu mô thận, các u bể thận xâm lấn
thành bể thận đẻ vào tổ chức vùng rốn thận rất nhanh. Đặc biệt là loại ung thư này xâm
lấn rất nhanh vào tổ chức xơ mỡ sau phúc mạc.
Di căn theo đường bạch huyết:
Hay gặp di căn hạch, mức độ lan truyền phụ thuộc vào vị trí của tổn thương ban đầu.
Thường phát hiện được khoảng 30% có di căn hạch ngay từ lần thăm dò đầu tiên: hạch
hạ vị, cạnh động mạch chủ, sau tĩnh mạch chủ, cạnh rốn thận dần dần di căn theo ống
ngực.
Di căn xa: Thường gặp ở giai đoạn muộn, hay gặp nhất là di căn xương, (cột sống,
xương chậu, xương đùi…), gan, phổi…
Chẩn đoán lâm sàng
Đái máu gặp trong khoảng 80% các ca, hiếm khi có đái máu vi thể
Cơn đau quặn thận đôi khi xảy ra khi đái máu
Đau vùng thận ( 30%) do: bít tắc do u, do di căn gây chèn ép khu vực, do tổn
thương di căn cột sống, xương…)
Thận to( do u, do ứ nước nguyên nhân u). Hiếm thấy u ở niệu quản đoạn tiểu
khung)
Nhiễm trùng tiết niệu
Chẩn đoán tế bào trong nước tiểu
Có nhiều phương pháp nhưng hai kỹ thuất sau được áp dụng nhiều nhất:
Xét nghiệm tế bào trong nước tiểu( kết quả đạt từ 35-65 %)
Chải rửa đường bài xuất rồi xét nghiệm tìm tế bào ung thư( kết qủ đạt 78- 100%)
Chẩn đoán hình ảnh
Với các u đường bài xuất đoạn cao, vai trò của các kỹ thuật mới tiên tiến như siêu âm,
chụp CLVT, CHT thường hạn chế. UIV và UPR là các kỹ thuật tối ưu, nhất là đối với u
niệu quản.
UIV:
Nên dùng thuốc có độ thẩm thấu thấp, và nên ép niệu quản trừ khi đã có bít tắc.Dù ở bất kỳ vị trí nào thuộc đài bể thận hay niệu quản hình ảnh điện quang cũng tương tự như nhau tuỳ theo bản chất của tổn thương dạng u hay thâm nhiễm, có hai hình ảnh chính trên UIV: Hình khuyết và hình hẹp (hiếm).
Tổn thương dạng u :
Biểu hiện bằng hình khuyết thành cùng với các dấu hiệu bít tắc nhiều hay ít.
ở bể thận hình khuyết dễ thấy hơn là ở các đài thận các hình khuyết có đặc điểm:
Bờ không đều, nham nhở, có thể có nhiều thuỳ múi, ngược lại các sỏi (không cản quang) hay u thận vùng vỏ xâm lấn bể thận thường có vỏ đều nhẵn.
Hình khuyết bám vào thành bể thận, trường hợp u có cuống rất khó xác định cần chụp thêm ở các tư thế khác để tìm dấu hiệu này.
Hình khuyết không thay đổi
Với các u vùng đài bể thận nên chụp CLVT. UIV thường thấy hình khuyết bờ không đều hoặc hình đài thận bị cắt cụt.
Các u ở niệu quản: Tại vị trí u thấy hẹp – giãn dưới vị trí hẹp tạo thành hình giống cốc rượu(dấu hiệu Bergmann), dấu hiệu này rất có giá trị chẩn đoán.
Tổn thương dạng thâm nhiễm:
Các u bể thận thâm nhiễm nhu mô thận nhưng chưa vượt quá nhu mô thận, không phát triển ra ngoài thận, không phát triển thâm nhiễm vào trong lòng đường bài xuất tạo nên hình ảnh hẹp hoặc cắt cụt đài. ở niệu quản nó tạo nên hình đoạn hẹp ngắn, bờ nham nhở không đều trong khi các carcinome sau phúc mạc cũng tạo nên hình hẹp nhưng bờ nhẵn.
Siêu âm
Chẩn đoán bằng siêu âm gặp nhiều khó khăn trừ những khối u to ở bể thận, với thể thâm nhiễm siêu âm gần như bất lực.
Trong trườnghợp thận còn chức năng ta có thể thấy hình giãn ở thượng lưu vị trí hẹp do u, siêu âm dễ ràng phát hiện u do xung quanh u là dịch.
Dạng thâm nhiễm nhu mô thận do u đường bài xuất trên siêu âm có hình đặc biệt: thận không to, hoặc ít thay đổi, không thấy giãn các đài bể thận biến đổi cấu trúc âm của đài bể thận bình thường, dấu hiệu này cho phép ta phân biệt với ung thư thận nói trên.
Các hình khuyết không điển hình trong lòng đường bài xuất, cần koại trừ sỏi không cản quang. Sỏi không cản quang có hình đậm âm kèm bóng cản giống như sỏi cản quang thông thường, trong khi đó các u có hình ảnh khối đặc, âm khá đồng nhất, và ít khi có vôi hoá. Có rất nhiều hình giả tạo cần loại trừ: tổ chức mỡ trong xoang thận, hình khuyết do cục máu đông, hay cục mủ đặc.
Siêu âm chẩn đoán bít tắc đoạn nối niệu quản bàng quang do u: Do bàng quang đầy nước tiểu nên thăm khám đoạn niệu quản thấp dễ: khối u nhú có cấu trúc siêu âm đặc, đồng nhất, không có bóng cản, u có thể xâm lấn cả một đoạn niệu quản, một phần vào bàng quang, đôi khi nhầm lẫn là u nhú bàng quang.
CLVT:
Vai trò của chụp cắt lớp vi tính đứng vị trí thứ hai sau UIV:
Các khối vùng bể thận , đài thận ( xem phần trên)
CLVT có hiệu quả khá tốt. Các khối u đường bài xuất thường có tỷ trọng thấp, <100 -70
HU, có thể có vôi hoá bề mặt u.
Trong thể thâm nhiễm CLVT rất có giá trị:
Thận không to
Ranh giới u với nhu mô thận lành không rõ, bờ không đều.
Giảm tưới máu trong u nên rất khó chẩn đoán phân biệt với các nốt di căn từ xa tới.
CLVT trong tìm tổng quan di căn bệnh này giống như trong ung thư thận nói trên.
Các khu trú u ở niệu quản (hình 29,30,31)
CLVT ít có giá trị. Có thể thấy thận bên tổn thương ứ nước, cấu trúc u ít ngấm thuốc
cản quang, xâm lấn tổ chức mỡ sau phúc mạc quanh niệu quản.
Hình 29. U niệu quản trên UIV và chụp bể thận niệu quản qua da
Chụp UPR
Chụp niệu quản bể thận ngược dòng rất có giá trị: Đặt sonde có bóng ngay vị trí trên lỗ
niệu quản(méat) rồi bơm thuốc chụp, nguy cơ của kỹ thuật này là nhiễm trùng ngược
dòng(nếu cần nên làm ngay trước khi phẫu thuật).
Kỹ thuật này nên được thay thế bằng chụp bể thận niệu quản qua da khi có:
U bít lỗ đổ vào của niệu quản.
Đã phẫu thuật trồng lại niệu quản
Tổn thương ung thư gây chít hẹp niệu quản và mất chức năng thận.
Thận ứ nước nhiễm trùng (làm cùng với dẫn lưu thận qua da).
Hình 30. U niệu quản và bàng quang gâu ứ nước thận phải trên CLVT
Hình 31. U niệu quản trái trên CLVT trước và sau tiêm cản quang
Chụp CHT
Chỉ có giá trị tìm một tổng quan di căn, ít có giá trị chẩn đoán xác định.
Chẩn đoán phân biệt:
Cần chẩn đoán phân biệt với sỏi không cản quang, máu cục, polype…
Tóm lại: Các u đường bài xuất nói chung tiên lượng xấu với các đặc điểm:
U nhiều thuỳ múi sùi vào lòng đường bài xuất gây bít tắc, ứ nước ở thượng lưu, nhiễm
trùng nước tiểu do bít tắc
U ít phát triển ra ngoài bờ thận trừ khi ở giai đoạn muộn xâm lấn mô thận
U thường ngấm thuốc ít, đồng nhất.
Có thể nhiều ổ trên đường đi của đường bài xuất (có tới 20% các ca có hai ổ ở cao và
đoạn thấp).
Di căn hạch rốn thận sớm
Xâm lấn quanh đường bài xuất vào tổ chức mỡ sau phúc mạc
Chụp cắt lớp vi tính sỏi bít tắc đường bài xuất
Niệu quản có 3 vị trí hẹp sinh lý hay lưu giữ sỏi đường bài xuất: đoạn khúc nối, đoạn
ngang động mạch chậu, đoạn thành bàng quang.
Sỏi là một trong những nguyên nhân gây cơn đau quặn thận nhiều nhất, nhất là vị trí sỏi
ở lỗ đổ vào bàng quang 9chiếm 20 -30 % các cơn đau quặn thận).Thông thường người
ta có thể chẩn đoán nguyên nhân gây cơn đau quặn thận do sỏi bằng lâm sàng, siêu âm,
chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị và UIV. Tuy nhiên trong một số trường hợp chẩn đoán
nguyên nhân do sỏi cũng gặp nhiều khó khăn:
Sỏi không cản quang
Sỏi ở đoạn thắt lưng khó thăm dò bằng siêu âm
Bệnh nhân có cơ địa dị ứng
UIV trong cơn đau quặn thận bị thất bại. Hơn nữa chỉ định UIV trong cơn đau quặn thận
cũng còn đang có nhiều ý kiến trái ngược nhau.
Trên thực tế nhiều trường hợp trong cơn đau quặn thận siêu âm chỉ thấy được các dấu
hiệu gián tiếp như giãn đường bài xuất mà chưa xác định được chính xác vị trí và nguyên
nhân bít tắc.
Chụp CLVT đã góp phần xác định chính xác vị trí và nhất là nguyên nhân do sỏi ( dù cản
quang hay không cản quang).
Kỹ thuật: Với siêu âm định hướng trước đoạn bít tắc ta thực hiện chụp CLVT xoắn ốc (có
thể không cần tiêm thuốc cản quang) rồi tái tạo ảnh hai bình diện ta sẽ xác định được vị
trí và sỏi bít tắc với các dấu hiệu:
Giãn đường bài xuất trên vị trí bít tắc
Sỏi bít tắc với tỷ trọng cao tuỳ theo cấu trúc hoá học của sỏi
Nếu tiêm thuốc cản quang có thể thấy các dấu hiệu: thì nhu mô đậm và tồn tại
lâu (nên phối hợp với UIV post- Scan).
Chụp UIV sau CLVT ta sẽ thấy các dấu hiệu của cơn đau quặn thận cấp trên UIV.
CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH BÀNG QUANG
Bệnh lý bàng quang rất phức tạp, có nhiều phương pháp chẩn đoán như soi, siêu âm,
chụp UIV, chụp bàng quang. Mỗi phương pháp có tính ưu việt riêng. Chụp CLVT ngoài
khả năng phát hiện tổn thương còn rất có giá trị trong đánh giá tổn thương xâm lấn thành
và tổ chức mỡ quanh bàng quang vì vậy rất có giá trị trong chẩn đoán và làm một tổng
quang các u bàng quang. Chụp cộng hưởng từ cũng có giá trị chẩn đoán cao nhưng
chưa phổ biến ở Việt nam.
Kỹ thuật chụp
Chuẩn bị bệnh nhân: Chụp CLVT được tiến hành sau khi đã cho bệnh nhân uống 750
ml và thụt 350ml thuốc cản quang Iode 2% vào trực tràng nhằm mục đính tạo được cản
quang trong toàn bộ ống tiêu hoá và đảm bảo cho bàng quang căng vừa phải hoặc
trong trường hợp bàng quang đã có sẵn dẫn lưu thì tiến hành bơm 300-500 ml không
khí cũng cho phép tạo được đối quang tự nhiên giữa khối u và thành bàng quang hay
các tổ chức xung quanh.
Bệnh nhân được chụp khi bàng quang căng vừa phải. Tư thế nằm ngửa hai tay đặt cao
lên đầu. Trong chấn thương không cần thiết bất cứ một sự chuẩn bị nào.
Tiến hành chụp CLVT với các lớp cắt không và có tiêm thuốc cản quang với chiều dày
các lớp cắt ổ bụng 10mm và vùng chậu hông 5mm có tiêm thuốc cản quang nhanh tĩnh
mạch
Các lớp cắt có tiêm thuốc cản quang giúp cho việc hiện rõ các cấu trúc mạch máu qua
đó đánh giá được các hạch bất thường bao quanh nó và cho phép thấy rõ được tình
trạng của niệu quản hai bên.
Các lớp cắt muộn có ý nghĩa làm rõ tổn thương u khi tạo được sự đối quang giữa tổ
chức u và lòng bàng quang chứa đầy thuốc cản quang. Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng và
chậu hông trước phẫu thuật được coi như là cần thiết để đánh giá sự xâm nhiễm của
các khối u bàng quang. Mở cửa sổ in phim phù hợp để dánh giá tổ chức mõ trong tiểu
khung.
Ung thư bàng quang
Các u lành tính ở bàng quang rất hiếm. U ác tính bàng quang thường gặp nhất trong
các u ác tính hệ tiết niệu ( 3% các ung thư biểu mô).
Về phương diện chẩn đoán thì soi và sinh thiết rất có giá trị, tuy nhiên chẩn đoán hình
ảnh cũng có vai trò không nhỏ nhất là tìm hiểu một tổng quan về di căn.
Giải phẫu bệnh
Chủ yếu các khối u bàng quang là các carcinome bao gồm:
Các carcinome tế bào vẩy (<5%) hay gặp trong các viêm bàng quang mạn tính.
Các carcinome urothelial chiếm khoảng 90- 95 % bao gồm:
Các u nhú, khối u thường lớn, tiên lượng tốt do tiến triển chậm (25%)
Các u dạng thâm nhiễm, tiên lượng xấu, hay gặp vùng đáy bàng quang.
Phân loại quốc tế theo TNM ung thư bàng quang
Tis: Ung thư tại chỗ (in situ)
Ta: Khu trú ở lớp niêm mạc
T1: Thâm nhiễm tổ chức dưới màng đáy niêm mạc
T2: Thâm nhiễm lớp cơ nông
T3A:Thâm nhiễm lớp cơ sâu
T3B:Thâm nhiễm lớp mỡ quanh bàng quang
T4A:Thâm nhiễm các cơ quan lân cận
T4B:Thâm nhiễm tới thành chậu hông
No: Không có di căn hạch
N1:Có thâm nhiễm một hạch chậu trong haychậu ngoài cùng bên
N2: Thâm nhiễm hạch chậu trong hay chậu ngoài bên đối diện hau cả hai bên hay nhiều
hạch
N3 : Hạch chậu trong dính
N4: Hạch chậu gốc, bẹn,hay cạnh động mạch chủ
Mo : Chưa có di căn
M1 : Có di căn
Lâm sàng
Đái máu cuối bãi (85% các ca) có thể kèm dấu hiệu viêm bàng quang, đau khi đái.
Khi có di căn đôi khi thấy cơn đau quặn thận, phù chi dưới, đau vùng tiểu khung.
Siêu âm ( hình 32)
Siêu âm qua da và qua âm đạo, trực tràng rất dễ phát hiện các khối u sùi, lớn nhưng rất
khó với thể thâm nhiễm. Tuy nhiên siêu âm rất có giá trị đánh giá có xâm lấn lỗ niệu
quản hay không.Tìm hach và thâm nhiễm thành bàng quang cũng như các cơ quan lân
cận thì siêu âm còn nhiều hạn chế.
UIV và chụp bàng quang( hình 32)
Ngoài khả năng đánh giá chức năng thận, UIV còn cho thấy tổn thương có xâm lấn lỗ
niệu quản không ( với dấu hiệu ứ nước thận).
Với các u sùi nhú có thể thấy hình khuyết bờ bàng quang không đều.
Thể thâm nhiễm ta có thể thấy hình cứng không thay đổi trên các phim chụp khác nhau.
Hình 32. Siêu âm và UIV u bàng quang
CẮT LỚP VI TÍNH
Hình ảnh trực tiếp các khối u nguyên phát
U bàng quang thường là các khối sùi tỷ trọng tổ chức, ngấm thuốc cản quang
thay đổi từ 40 đơn vị Hounsfield trước khi tiêm đến khoảng 70 đơn vị Hounsfield
sau khi tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch.
Khối u có thể gặp ở nhiều vị trí khác nhau: Vòm bàng quang, đáy cổ bàng quang,
thành bên…
Khối u có thể đơn độc hay nhiều u kết hợp, diện bám thành của các khối u có thể
rộng hay có cuống đôi, khi chỉ thấy sự dày lên của thành bàng quang.
CLVT đánh giá được hình ảnh thành bàng quang dày thành mảng hay không.
Chụp CLVT cho phép đánh giá được tỷ trọng của khối u, dễ dàng nhận biết các
vôi hóa trong u hay trên bề mặt, đánh giá được bề mặt của khối u, đo được kích
thước của khối u.
Các dấu hiệu xâm lấn của u bàng quang ra xung quanh( hình 33,34)
Xâm lấn lớp mỡ quanh bàng quang: Hình ảnh xâm lấn lớp mỡ quanh bàng quang thể
hiện là sự mất liên tục của thành bàng quang kèm theo mờ đi của tổ chức mỡ quanh
bàng quang (hình ảnh kinh điển là hình cỏ cháy) bình thường thấy rõ trên các lớp cắt
không tiêm thuốc cản quang hoặc xuất hiện hình ảnh khối u trong tổ chức mỡ quanh
bàng quang.
Xâm lấn túi tinh: Trạng thái bình thường túi tinh tạo nên một góc nhọn với mặt sau của
bàng quang và di động khi ta thay đổi tư thế, khi có xâm lấn thì 2 tiêu chuẩn là: góc
trong bị tù đi và lớp mỡ giữa bàng quang và túi tinh bị xoá đi. Xâm lấn túi tinh là yếu tố
tiên lượng xấu.
Xâm lấn tiền liệt tuyến: khó chẩn đoán trên phim CLVT, dấu hiệu thấy được là sự
không đồng nhất và phì đại một thuỳ tuyến, đồng thời niệu đạo bị đẩy (nhìn rõ khi có
sonde bàng quang ) phì đại tuyến đồng nhất một bên hay hai bên kết hợp với sự giảm
khoảng mỡ trước TLT đôi khi không phải là dấu hiệu đặc hiệu vì u phì đại TLT hình ảnh cũng tương tự. Xâm lấn này có thể theo 3 cách khác nhau: Xâm lấn qua lớp mỡ quanh
bàng quang tới TLT, xâm lấn trực tiếp khi khối u vị trí đáy cổ bàng quang hay xâm lấn
dọc theo thành niệu quản vào TLT. Khi khối u đã xâm lấn vào tổ chức đệm của TLT là
yếu tố tiên lượng xấu.
Xâm lấn thành bụng trước thấy trong các khối u lớn và các khối u ở mặt trước bàng
quang, cần thận trọng khi chẩn đoán dấu hiệu này trong trường hợp tồn tại sẹo ở
đường giữa vì nó gây ra hình ảnh giả dầy thành bụng dưới rốn.
Xâm lấn các thành khác chậu hông đặc trưng là giai đoạn T4B, chẩn đoán thường dễ
dàng, rất nhiều dấu hiệu có thể tìm thấy:
Biến mất một bên khoảng mỡ ở tư thế nằm ngửa hay nghiêng bên.
Phì đại cơ.
Xâm lấn tới lỗ bịt.
Hình ảnh di căn tiêu xương phối hợp cần biết điều này để chọn cửa sổ
thích hợp.
Xâm lấn cấu trúc ống tiêu hóa đặc biệt là đại tràng xích ma gặp trong các khối u ở đỉnh
bàng quang.
Xâm lấn niệu quản bởi lan tràn trực tiếp của khối u hay gặp ở các khối u quanh chu vi
của lỗ niệu quản đổ vào bàng quang, chẩn đoán dễ dàng khi có xuất hiện tỉ trọng của tổ
chức không bình thường trong lòng niệu quản đã giãn, thường kéo theo ứ nước thận.
Xâm lấn các chuỗi hạch, CLVT rất có hiệu quả trong việc phát hiện các hạch vùng
chậu hông, các hạch bệnh lý có thể được khẳng định nhờ các tiêu chuẩn dưới đây:
Kích thước lớn hơn 1cm.
Nhiều hạch tập trung thành nhóm.
Để đánh giá các hạch cần tiến hành tiêm thuốc cản quang, tiêm nhanh hay truyền
nhanh mục đích để nhận ra các trục mạch máu, các hạch thường ngấm ít thuốc cản
quang so với mạch máu, các hạch thường xuất hiện dưới dạng các khối tròn, bờ có
nhiều múi, tỉ trọng đồng nhất, ôm lấy các cuống mạch máu hay là các khối tỉ trọng
không đồng nhất giới hạn không rõ chèn ép vào các cuống mạch máu, thăm khám cần chú nhận thấy dấu hiệu không cân xứng của cuống mạch, hạch bệnh lý có thể kèm theo
huyết khối tĩnh mạch ở phía dưói chỗ nó chèn ép vào.
Hạch thường được tìm thấy ở 4 vị trí khác nhau:
Hạch dọc động mạch chậu ngoài, chuỗi hạch này nhận trực tiếp từ hệ thống bạch
huyết của bàng quang, tìm hạch ở vị trí xung quanh cuống mạch chậu ngoài tiếp xúc
với cơ đái chậu ở phần giữa và dưới trong hố chậu.
Chuỗi hạch bịt bao xung quanh thần kinh bịt trong ở vị trí tiếp xúc cơ bịt trong sẽ nhận
thấy trên các lớp cắt ngang phía trên trần ổ cối.
Chuỗi hạch chậu trong bao quanh các mạch máu cùng tên, vị trí hạch cần tìm ở phía
trước phần dưới của khớp cùng chậu, ít gặp tổn thương ở chuỗi hạch này hơn.
Tổn thương chuỗi hạch chậu gốc gặp ở dưới chỗ chia của động mạch chủ bụng
thường là các tổn thương di căn hạch.
Các hạch bẹn có thể sờ thấy nhưng với các bệnh nhân béo thì khó khăn, thấy ở phía
trước của động mạch đùi trên lớp cắt ngang qua khớp mu.
Các hạch chủ-thắt lưng thường là các tổn thương thứ phát gặp sau khi đã xuất hiện tổn
thương xâm lấn vùng chậu hông.
CLVT có giá trị hơn siêu âm trong việc phát hiện các hạch bệnh lý vùng chậu hông và
giá trị tương đương với CHT, độ tin cậy đạt được là 80-90%.
Hạch thường gặp trong các khối u bàng quang đã có xâm lấn hơn là các u nông, khi đã
có xâm lấn mỡ đại thể thì gặp di căn hạch nhiều hơn so với các khối u xâm lấn mỡ ở
mức độ vi thể, khi đã có di căn hạch thì là yếu tố dự báo tái phát của khối u và tiên
lượng xấu. Vì vậy trong phẫu thuật cần đánh giá ít nhất được 9 hạch và chắc chắn nhất
là 16 hạch.
Khi đã có xâm lấn hạch dọc động mạch chậu thì không còn chỉ định phẫu thuật.
Di căn xương trong ung thư bàng quang thường là các di căn tiêu xương, trên hình
ảnh cắt lớp vi tính cần chọn cửa sổ xương nhằm tránh bỏ sót các tổn thương.
Các tổn thương di căn xa khác: cũng giống như các ung thư biểu mô khác vị trí hay
gặp của ung thư biểu mô đường tiết niệu bàng quang là di căn gan, phổi, xương. Các vị
trí khác ít gặp hơn là di căn phúc mạc, màng phổi, thận, thượng thận.
Hạn chế của CLVT trong chẩn đoán các khối u bàng quang
Không có khả năng phân biệt được các lớp của thành bàng quang do vậy khó xác định
được mức độ thâm nhiễm thành bàng quang: niêm mạc, cơ, thanh mạc, chỉ đánh giá
được giai đoạn khi khối u đã vượt ra ngoài thành bàng quang.
Các khối u ở vòm hay đáy bàng quang kích thước nhỏ đôi khi khó phát hiện trên
CLVT.
Xâm lấn tiền liệt tuyến xảy ra trên bệnh nhân có u phì đại tiền liệt tuyến phối hợp.
Trong bảng tổng kê đánh giá các di căn xa thì giá trị của CLVT không hơn so với siêu
âm trong việc phát hiện các di căn gan.
Hạn chế đánh giá xâm lấn qua thành bàng quang trong các trường hợp có viêm bàng
quang phối hợp, bàng quang được phẫu thuật nhiều lần, đã được điều trị tia xạ hoặc
nội soi chẩn đoán và điều trị.
Khi có dấu hiệu co kéo khu trú tại thành bàng quang hoặc dày khu trú thành bàng
quang cũng không cho phép khẳng định được đã có xâm lấn.
Hình 33. CLVT u bàng quang kèm xâm lấn tổ chức mỡ quanh bàng quang
Hình 34. CLVT U bàng quang xâm lấn thành bụng trước
Chụp cộng hưởng từ
Tương tự như CLVT nhưng ít tin cậy hơn trong tìm di căn xa
Di căn xương giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2 và ngấm Gado.
Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với polype, sa lồi niệu quản, máu cục, sỏi không cản quang…
BÌNH LUẬN