You dont have javascript enabled! Please enable it! Bệnh Wilson chẩn đoán và điều trị - THƯ VIỆN MEDIPHARM
Trang chủNội khoaNội tiết

Bệnh Wilson chẩn đoán và điều trị

Phác đồ chẩn đoán và điều trị Hội chứng Fanconi
[Biên dịch] Lịch sử của phẫu thuật ghép gan
Phác đồ chẩn đoán và điều trị xuất huyết tiêu hóa dưới
Phác đồ và thuật toán tiếp cận chẩn đoán và điều trị hạ natri máu
Phác đồ chẩn đoán và điều trị Suy gan cấp

Bệnh Wilson là kết quả của sự tích tụ đồng trong gan và các cơ quan khác. Phát triển các triệu chứng gan hoặc thần kinh. Chẩn đoán dựa trên nồng độ ceruloplasmin huyết thanh thấp, bài tiết đồng trong nước tiểu quá nhiều, và đôi khi ở kết quả sinh thiết gan. Điều trị bao gồm chế độ ăn chứa đồng thấp và các thuốc như penicillamine hoặc trientine.
Bệnh Wilson là rối loạn chuyển hóa đồng có ảnh hưởng đến nam giới và nữ giới; khoảng 1 người trong 30.000 người có rối loạn. Những người bị ảnh hưởng là đồng hợp tử đối với gen lặn đột biến, nằm trong nhiễm sắc thể số 13. Những người mang dị hợp tử, chiếm khoảng 1,1% dân số, không có triệu chứng.

Sinh lý bệnh của bệnh Wilson
Khiếm khuyết gen di truyền trong bệnh Wilson làm suy giảm vận chuyển đồng. Vận chuyển yếu làm giảm bài tiết đồng trong mật, do đó gây quá tải đồng và sự tích tụ kết quả trong gan, bắt đầu từ lúc sinh. Vận chuyển yếu cũng can thiệp vào việc kết hợp đồng vào protein đồng ceruloplasmin, do đó làm giảm mức độ ceruloplasmin trong huyết thanh.

Phát triển chứng xơ hóa gan, nguyên nhân cuối cùng bệnh xơ gan. Đồng khuếch tán ra khỏi gan vào trong máu, sau đó vào các mô khác. Nó phá huỷ nhiều nhất là não nhưng cũng phá hủy thận và các cơ quan sinh sản và gây thiếu máu tan máu. Một số đồng đã lắng đọng quanh rìa của giác mạc và mép của mống mắt, là nguyên nhân vòng Kayser-Fleischer. Các vòng xuất hiện để bao quanh các tròng đen.

Triệu chứng và Dấu hiệu của bệnh Wilson
Các triệu chứng của bệnh Wilson thường phát triển từ 5 tuổi đến 35 tuổi nhưng có thể phát triển từ 2 tuổi đến 72 tuổi.

Ở gần một nửa số bệnh nhân, nhất là thanh thiếu niên, triệu chứng đầu tiên là

Viêm gan-cấp tính, mạn tính thể hoạt động, hoặc tối cấp
Nhưng, viêm gan có thể phát triển ở bất cứ thời điểm nào.

Trong khoảng 40% các bệnh nhân, đặc biệt bệnh nhân trẻ tuổi vị thành niên, các triệu chứng đầu tiên phản ánh

Biểu hiện hệ thần kinh trung ương (CNS)
Các khiểm khuyết vận động là phổ biến, bao gồm các sự kết hợp của rùng mình, rối loạn trương lực, rối loạn cận ngôn, chứng nuốt khó, chứng múa giật, chảy nước dãi, và sự không phối hợp vận động. Đôi khi các triệu chứng của CNS là những bất thường nhận thức hoặc thần kinh.

Trong 5 đến 10% bệnh nhân, triệu chứng đầu tiên được tình cờ thấy vòng Kisher-Fleischer vàng hoặc vàng xanh lá hoặc hình trăng lưỡi liềm (do lắng cặn đồng trong giác mạc), không có kinh nguyệt hoặc sẩy thai tái phát, hoặc đái ra máu.

Chẩn đoán bệnh Wilson

Kiểm tra bằng đèn chiếu để tìm vòng Kayser-Fleischer
Ceruloplasmin trong huyết thanh, đôi khi đồng huyết thanh, và bài tiết đồng trong nước tiểu trong 24 giờ
Đôi khi được xác nhận bằng xét nghiệm đáp ứng penicillamine hoặc sinh thiết gan
Bệnh Wilson cần phải được nghi ngờ ở những người < 40 có bất kỳ dấu hiệu sau đây:

Rối loạn không xác định về gan, thần kinh, hoặc rối loạn tâm thần
Tăng nồng độ transaminase ở gan không rõ nguyên nhân
Có anh chị em ruột, cha mẹ, hoặc họ hàng mắc bệnh Wilson
Viêm gan tối cấp
Nếu nghi ngờ là bệnh Wilson, việc kiểm tra bằng đèn chiếu các vòng Kayser-Fleischer phải được thực hiện, và đo nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và bài tiết đồng trong nước tiểu 24 giờ. Có thể đo nồng độ đồng trong huyết thanh, nhưng đo nồng độ ceruloplasmin thường là đủ. Mức transaminase thường được đo lường; các mức cao khẳng định chẩn đoán.

Vòng Kayser-Fleischer
Những vòng này cùng với những bất thường thần kinh vận động điển hình hoặc giảm ceruloplasmin gần như là đặc trưng của bệnh Wilson. Hiếm khi, những vòng này xảy ra trong các rối loạn gan khác (ví dụ như chứng ứ mật, xơ gan mật nguyên phát), tuy nhiên nồng độ ceruloplasmin không bị ảnh hưởng.

Ceruloplasmin
Ceruloplasmin huyết thanh (thường là 20 đến 35 mg/dL [200 đến 350 mgs/L]) thường thấp ở bệnh Wilson nhưng có thể bình thường. Nó cũng có thể thấp có mang dị hợp tử và những người có các chứng rối loạn gan khác (ví dụ viêm gan do virut, bệnh gan do thuốc hoặc rượu gây ra). Mức ceruloplasmin thấp ở bệnh nhân có 1 vòng Kayser-Fleischer có ý nghĩa chẩn đoán. Ngoài ra, nồng độ < 5 mg/dL (< 50 mg/L) gợi ý cao bất kể những dấu hiệu lâm sàng.

Đồng huyết thanh
Nồng độ đồng huyết thanh đôi khi được đo; chúng có thể cao, bình thường hoặc thấp.

Bài tiết đồng qua nước tiểu
Trong bệnh Wilson, bài tiết đồng qua nước tiểu 24 giờ (thông thường là ≤ 30 mcg/ngày) thường là > 100 mcg/ngày. Nếu nồng độ ceruloplasmin huyết thanh thấp và sự bài tiết đồng qua nước tiểu cao, chẩn đoán là rõ ràng. Nếu các mức độ không rõ ràng, việc đo bài tiết đồng trong nước tiểu sau khi sử dụng penicillamine (kiểm tra đáp ứng penicillamine) có thể khẳng định chẩn đoán; kiểm tra này thường không được thực hiện ở người lớn vì giá trị điểm cắt không được thiết lập tốt.

Sinh thiết gan
Trong các trường hợp không rõ ràng (ví dụ transaminase tăng cao nhưng không có vòng Kayser-Fleischer, các giá trị không xác định đối với ceruloplasmin và đồng trong nước tiểu), chẩn đoán được thực hiện bằng cách làm sinh thiết gan để đo nồng độ đồng trong gan. Tuy nhiên, kết quả âm tính giả có thể phát sinh do lỗi lấy mẫu (do có sự dao động lớn về nồng độ đồng trong gan) hoặc viêm gan tối cấp (gây ra hoại tử và thải ra một lượng lớn đồng).

Sàng lọc bệnh Wilson
Bởi vì điều trị sớm là hiệu quả nhất nên sàng lọc được chỉ định cho những người có anh chị em ruột, anh họ hoặc cha mẹ mắc bệnh Wilson. Khám sàng lọc bao gồm kiểm tra bằng đèn và kiểm tra nồng độ transaminase, đồng huyết thanh và ceruloplasmin huyết thanh, và sự bài tiết đồng qua nước tiểu trong 24 giờ. Nếu các kết quả là bất thường, sinh thiết gan được thực hiện để đo nồng độ đồng trong gan.

Trẻ sơ sinh không nên thực hiện xét nghiệm cho đến khi trẻ được trên 1 tuổi vì nồng độ ceruloplasmin thấp trong vài tháng đầu đời. Trẻ em < 6 tuổi với kết quả xét nghiệm bình thường nên được xét nghiệm lại từ 5 đến 10 năm sau.

Xét nghiệm gen được thực hiện.

Tiên lượng cho bệnh Wilson

Tiên lượng cho các bệnh nhân bị bệnh Wilson thường là tốt, trừ khi bệnh tiến triển trước khi bắt đầu điều trị.

Bệnh Wilson không được điều trị gây tử vong, thường là trước 30 tuổi.

Điều trị bệnh Wilson

Dùng thuốc Penicillamine hoặc Triadine
Chế độ ăn ít đồng
Để duy trì, dùng penicillamine liều thấp kéo dài hoặc trientine, hoặc kẽm đường uống
Điều trị bệnh Wilson kéo dài, liên tục là bắt buộc bất kể có triệu chứng lâm sàng hay không. Một chế độ ăn ít đồng (ví dụ như loại bỏ gan bò, hạt điều, đậu mắt đen, sinh tố rau, tôm, nấm và ca cao) và sử dụng penicillamine, trientine, và đôi khi uống kẽm có thể ngăn đồng tích tụ. Lượng đồng trong nước uống nên được kiểm tra, và mọi người nên được tư vấn không bổ sung bất kỳ vitamin hoặc khoáng chất có chứa đồng.

Penicillamine là thuốc chelating được sử dụng phổ bến nhất nhưng cần cân nhắc độc tính (như sốt, phát ban, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, protein niệu). Khả năng phản ứng chéo có thể phát sinh ở những người bị dị ứng penicillin. Bệnh nhân > 5 tuổi được cho uống liều 62,5 mg, 6 giờ một lần đến 250 mg 12 giờ một lần (250 đến 500 mg/ngày chia làm 2 đến 4 liều) và tăng chậm lên đến tối đa là 250 mg từ 6 giờ một lần đến 750 mg 12 giờ một lần (1000 đến 1500 mg/ngày chia làm 2 đến 4 liều). Trẻ nhỏ được cho uống 10 mg/kg 2 lần/ngày hoặc 6,7 mg/kg 3 lần/ngày (20 mg/kg/ngày) bằng đường uống. Pyridoxine 25 mg đường uống một lần/ngày được dùng với penicillamine. Đôi khi, sử dụng penicillamine có thể làm cho các triệu chứng thần kinh trầm trọng hơn.

Trientine hydrochloride, cũng là một loại thuốc chelating, là một cách điều trị thay thế cho thuốc penicillamine. Liều từ 375 đến 750 mg uống hai lần mỗi ngày hoặc 250 đến 500 mg uống 3 lần mỗi ngày (750 đến 1500 mg/ngày).

Kẽm axetat 50 mg uống 3 lần/ngày có thể làm giảm sự hấp thu đồng trong ruột non, do đó ngăn ngừa tái tích tụ đồng ở những bệnh nhân không đáp ứng thuốc penicillamine hoặc thuốc trientine hoặc những người có các triệu chứng thần kinh không đáp ứng với các thuốc khác. (Cảnh báo: Thuốc penicillamine hoặc thuốc trientine không được dùng cùng thời điểm với kẽm bởi vì một trong hai loại thuốc có thể liên kết kẽm, tạo thành một hợp chất mà không có tác dụng điều trị.)

Sự tuân thủ kém liệu pháp dùng thuốc khi điều trị trong thời gian dài là phổ biến. Sau khi điều trị được 1 đến 5 năm, có thể cân nhắc điều trị duy trì liều thấp. Nên theo dõiđịnh kỳ với các chuyên gia về bệnh gan.

Ghép gan có thể giúp ích cho những bệnh nhân mắc bệnh Wilson và bệnh suy gan tối cấp hoặc suy gan mạn tính nặng không đáp ứng với thuốc.

TÓM LƯỢC ĐIỂM CHÍNH
1. Bệnh Wilson là một bệnh hiếm, rối loạn NST lặn dai dẳng trong đó đồng tích tụ ở các cơ quan khác nhau.
2. Bệnh này biểu hiện trong thời thơ ấu hoặc trưởng thành, thường giữa độ tuổi từ 5 đến 35.
3. Nghi ngờ bệnh ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh hoặc có các triệu chứng gan, thần kinh, hoặc tâm thần không rõ nguyên nhân (bao gồm cả nồng độ transaminase tăng).
4. Khẳng định chẩn đoán chủ yếu bằng việc khám với đèn (đối với vòng Kayser-Fleischer) và đo nồng độ ceruloplasmin huyết thanh (có mức thấp) và bài tiết đồng qua nước tiểu trong 24 giờ (cao).
5. Khuyên các bệnh nhân tuân thủ theo chế độ ăn ít đồng và điều trị với penicillamine, trientine, hoặc kẽm qua đường uống nếu các thuốc này không dung nạp được hoặc không hiệu quả.

BÌNH LUẬN

WORDPRESS: 0